Mới tháng Tư họ còn có ba người: người đàn ông, người đàn bà và
cô hầu nhỏ, kẻ thường ngủ, như tôi biết, trên cái hòm nhỏ đặt sau chiếc
tủ. Chiếc tủ màu anh đào thẫm. Đến tháng Bảy, nếu như tôi nhớ không
lầm, họ chỉ còn có hai người: người đàn bà và người đàn ông. Cô hầu
đã chuyển đến chỗ cặp vợ chồng khác, những người trả cô ta ba rúp
một năm và mỗi ngày đều nấu bữa trưa cho cô.
Tháng Mười chỉ còn lại người đàn bà, một mình đơn độc. Cũng
không hoàn toàn đơn độc, vì trong phòng vẫn còn nhiều đồ đạc: hai cái
giường, cái bàn, cái tủ... Đến đầu tháng Mười một, người ta bán đấu giá
những đồ vật không cần thiết, và trong mọi kỉ niệm về người chồng quá
cố, chỉ còn giữ lại bên cạnh người đàn bà chiếc áo ghi lê, thứ mà hiện
tôi đang sở hữu.
Vào một ngày cuối tháng Mười một, người đàn bà gọi người chuyên
buôn bán đồ cũ vào căn phòng trống của mình và bán cho hắn ta chiếc
ô với giá hai zloty và chiếc áo ghi lê của người chồng để lại với giá bốn
mươi xu. Sau đó, bà khóa cửa căn hộ, lặng lẽ đi qua sân trong, ở cổng
bà trả chìa khóa cho người gác, đứng nhìn giây lát về phía ô cửa sổ xưa
kia của mình, trên đó những cánh tuyết nhỏ đang rơi xuống, và - biến
mất sau cổng.
Trên sân trong còn lại người buôn bán đồ cũ. Hắn nâng cái cổ lớn
của chiếc áo khoác ngoài lên, nhét dưới nách cái ô mới mua và cầm
chiếc áo ghi lê đã cuộn lại trong đôi tay đỏ vì lạnh, vừa đi vừa lầm bầm:
- Mua bán đây, các ngài ơi... Mua bán đây!...
Tôi gọi hắn.
- Ân nhân có cái gì bán phải không? - Hắn vừa đi vào vừa hỏi.
- Không, tôi muốn mua của anh một cái gì đó.
- Chắc hẳn ngài quyền quý muốn mua chiếc ô?... - Gã Do Thái đáp.
Hắn ném xuống đất cái áo ghi lê, rũ bụi khỏi cổ áo và cố gắng mở
chiếc ô ra.
- Gỗ này tốt lắm!... - Hắn nói - Trời tuyết thế này thì chỉ loại ô này
mới thích hợp... Tôi biết là ngài quyền quý có thể có chiếc ô bằng lụa,