đôi bàn tay chai sạn lên trên đó. Chiếc mũ che mái tóc bạc của ông, còn
tiếng cọt kẹt của ống đôi ủng mới đã đổ vào căn phòng tiếng rì rầm vui
tươi. Khi bàn được bày biện chu đáo, cậu bé tắm rửa, chải lại mớ tóc
lông chuột trên cái đầu nhỏ nhắn dài ngoẵng của mình, cài khuy cổ áo
mới và cổ tay áo vừa giặt sạch sẽ, đặt hai tay ra sau lưng, đứng ưỡn
thẳng người với vẻ nghiêm trang, trong khi người ông vươn tay lên giá
lấy chiếc khăn có sọc đen trắng cuộn tròn và quyển sách kinh.
Giây lát sau vang lên tiếng tụng kinh bằng âm môi trầm bổng của
ông già Do Thái; giọng ông biến đổi qua tất cả các cung bậc, từ âm
thấp đến âm cao, vì thế tiếng hát của ông biến thành tiếng rền rĩ và than
vãn não nề, lúc thiết tha van xin, lúc khóc lên nức nở. Do ảnh hưởng
của tiếng hát đó, cậu bé học sinh trường trung học cảm thấy kích động
rùng mình, mặt mày vốn nhợt nhạt của cậu càng trở nên vàng vọt hơn,
đôi mắt to của cậu giương hết cỡ, lúc lúc lại chớp chớp và tràn đầy
nước mắt; cậu nhìn lên ông mình như bị thôi miên, cái ngáp như bị
chứng động kinh làm miệng cậu há hốc ra. Cũng may là sau đó không
lâu, người ông đã đóng quyển kinh cũ lại và bắt đầu lễ Giáng phước
bằng bữa tiệc của người Do Thái.
Có một lần vào mùa hè đã xảy ra trường hợp là những cậu bé con
ông thợ nguội Kolodziejski và thợ giày Pocieszka tụ tập trước cửa sổ
mở toang của ông thợ đóng sách già và nhìn vào căn phòng đang sáng
đèn của lễ Do Thái nọ, chúng biến buổi cầu kinh đó thành trò khôi hài
và trò đùa ngu ngốc.
Đúng lúc ấy, một cha xứ quản hạt già đi ngang qua con đường đó.
Sau khi lướt nhìn qua cửa sổ, thấy ông già Do Thái đang làm lễ cầu
kinh và rền rĩ cầu Chúa theo kiểu của mình, cha liền ngả mũ xuống.
Cảnh tượng ấy diễn ra câm lặng, nhưng lại nói lên rất nhiều điều. Bọn
trẻ con lủi mất khỏi đó cứ như gió cuốn chúng bay đi và kể từ đó,
không còn xảy ra trường hợp nào mà sự yên tĩnh của căn phòng nghèo
nàn này bị khuấy động nữa.
Mãi cho đến ngày hôm kia...