sau mình, mặc dù gã Do Thái đó vừa đuổi theo chúng tôi vừa gào to
rằng chúng tôi là lũ kẻ cướp, quân phá hoại và những từ vớ vẩn gì đó
mà bọn Do Thái nghĩ ra. Đến tận phố Ordynacka, bọn tôi vẫn tiếp tục
đánh trống ầm ầm trên ghế. Mọi người chạy đến, họ tưởng có “trò
diễn”. Mãi tới khi “gã con buôn” đuổi đến chỗ chúng tôi và vò bộ râu
khi nhìn thấy đám đông tụ tập bên những chiếc ghế, gã liền đưa cho
chúng tôi đồng ba xu để chúng tôi ra về.
Chuyến đi làm chúng tôi thích thú đến mức chỉ hỏi có cái gì cần
mang đi nữa hay không.
Đặc biệt, Felek ngày càng có nhiều sáng kiến mới. Chỉ vừa từ nhà trẻ
về, nó lập tức đặt tay chéo lên vai, đi đi lại lại trong phòng và nhìn khắp
mọi ngóc ngách như một chuyên viên đánh giá đồ vật.
- Hay là bán chiếc nồi sắt kia đi, bố nhỉ? Hay bán cái chậu giặt bằng
gỗ hoặc cái đồng hồ?
- Cút đi! - Bố quát. Bây giờ gần như lúc nào ông cũng tức giận vì
chuyện gì đó và buồn rầu.
- Felek! Con nói gì thế? - Mẹ lên tiếng bằng giọng yếu ớt - Chắc
không lâu nữa con muốn bán cả linh hồn của mình đấy nhỉ?
Tôi và Piotrus cũng lên tiếng phản đối dữ dội.
- Ôi!... Bán nồi ư?... Còn gì nữa?... Thế chúng ta sẽ nấu tấm và cả
khoai tây nữa bằng gì?
- Lại cả đồng hồ nữa!... - Piotrus tức giận nói thêm - Nếu không có
đồng hồ thì anh biết khi nào muốn ăn hoặc ngủ?...
- Ôi ây!... - Felek lên tiếng với bộ mặt kẻ vô thần đã hết thời - Nói gì
chứ nói chuyện đó!... Còn mày dù đồng hồ có chỉ giờ hay không chỉ
giờ thì lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện ăn thôi.
- Còn anh thì lao đến bà chủ cửa hàng để bà ấy cho “khúc giò thủ
loại tồi” với cái bánh mì tròn.
- Tao không lao đến! - Felek mặt đỏ bừng cãi lại.
- Anh có lao đến!
- Không lao đến.