Không lâu sau, trời cũng dịu bớt. Đêm đêm, tiếng nổ mạnh của
những lớp băng tan trên sông Wisla vọng lại nghe rất rõ. Tuy vậy,
chúng tôi vẫn phải mua than, bởi vì độ ẩm trong nhà cao đến mức nước
từ trên tường rỉ cả xuống.
Ngôi nhà của chúng tôi trống rỗng chẳng còn gì.
- Sáng ánh cả lên... - Như Felek nói.
Chiếc áo tồi tàn của mẹ ra đi, chiếc đồng hồ ra đi, chậu giặt bằng gỗ
ra đi, còn khi chiếc áo choàng màu xanh thẫm của bố cũng ra đi thì tôi
hoàn toàn mất niềm tin vào những thứ đồ “một lần dùng cả đời”, đặc
biệt sau chuyện vừa xảy ra với chiếc bàn là.
Bây giờ, chúng tôi đi lại trong căn nhà trống không như đi trong nhà
thờ, Felek còn lấy bàn tay bịt miệng hét to để nghe tiếng vang đáp lại.
Ông bác sĩ vẫn đến thăm bệnh mẹ, còn tôi thì vẫn chạy ra hiệu thuốc.
Cái nồi sắt cũng vẫn còn, nhưng chúng tôi rất hiếm khi dùng để nấu
bữa trưa. Chúng tôi thường luộc khoai tây cho bữa sáng, thứ còn lại
dùng cho cả bữa tối, còn buổi chiều, chúng tôi chạy đuổi theo lũ mèo
của chủ nhà, vì chúng kêu khủng khiếp trên mái nhà.
Một lần, bố ngồi xuống cạnh chiếc hòm đặt trên mặt đất, mở nó ra và
trầm tư rất lâu.
Ngày hôm ấy trời rất ẩm, nước từ mái nhà chảy xuống, lũ chim sẻ im
tiếng, lần đầu tiên trong mùa đông mặt trời hé mắt nhìn vào căn nhà
tầng dưới của chúng tôi. Tuy nhiên, tình trạng của mẹ lại tồi tệ hơn.
Suốt cả đêm, cơn ho hành hạ mẹ, và bà đòi uống thuốc hơn năm lần.
Không có thuốc. Felek đi rón rén đến nhìn qua vai bố. Nó nghĩ, chỉ có
Chúa mới biết, sẽ nhìn thấy cái gì đấy, nhưng chẳng có gì cả. Bố chỉ lắc
đầu, vuốt râu và nhìn trong im lặng vào gói vải màu đỏ đang nằm dưới
đáy hòm. Cuối cùng, ông thò tay nhấc nó lên, lấy chiếc harmonica ra và
sau khi ngồi lên giường mẹ, ông bắt đầu thổi.
Mẹ nghe và tươi tỉnh lên một chút, bảo mang Piotrus đến giường,
còn chúng tôi đứng bên cạnh, lắng nghe.
Bố càng thổi vui vẻ hơn và vừa thổi kèn vừa nói như thế này với mẹ: