khuỷu tay. Ôi, thậm chí đến người Do Thái của chúng ta cũng phải suy
ngẫm, nếu như người ta ra lệnh chặt cây như vậy đưa về Gdansk. Tâm
hồn tôi nhảy cẫng lên vì vui sướng khi nghĩ rằng sắp sửa được nhìn tận
mắt nhóm cây như vậy trong thiên nhiên, chứ không phải những cái
tháp khổng lồ đứng đơn độc trong rừng... trước nạn đại hồng thủy. Tôi,
một người Warszawa, sẽ được nhìn thấy bằng chính mắt mình “người
cha” của rừng, được chạm tay vào lớp vỏ của nó, và có thể tôi sẽ mang
một mẩu của nó về Warszawa để chứng minh cho những kẻ hoài nghi,
rằng tôi thật sự đã có mặt ở California. Con người, khi lầm lỗi như vậy,
chính bản thân cũng cảm thấy kì lạ và vô tình vui sướng với ý nghĩ
mình sẽ kể như thế nào khi trở về và những kẻ hoài nghi ở địa phương
sẽ không tin mình ra sao, rằng trên thế giới này có những cây gỗ chu vi
tới năm mươi sáu khuỷu tay. Những ý nghĩ đó bị giọng nói của một
người da đen làm ngắt quãng:
- Cà phê đen? Trắng?
- Đen, giống như ông ấy. - Tôi muốn trả lời như vậy, nhưng câu đáp
đó không chính xác, vì ông già da đen đó có chỏm đầu trắng như sữa,
chỉ có đôi chân là khập khễnh già nua.
Bữa trưa kết thúc. Mọi người đều đứng dậy. Ông chủ trang trại phì
phèo tẩu thuốc, bà vợ, sau khi ngồi xuống mép ghế tựa, bắt đầu lên
tiếng ba hoa một cách say sưa, còn cô con gái có mái tóc vàng nhạt, mũ
mào Polly hoặc Katty, thì đi đến chỗ cây đàn dương cầm và sau giây
lát, tôi nghe thấy khúc hát:
- Yankee Doodle is going down town...
“Đừng bắt tôi làm Yankee Doodle!” Tôi thầm nghĩ. Từ New York
đến Maripoza tôi đã nghe bài hát này từ các cô gái trẻ chơi đàn dương
cầm, những người lính chơi kèn đồng, những người da đen chơi trống,
trẻ em chơi trên những đốt xương bò. Tôi còn quên! Ngay cả trên tàu
thủy, bài Yankee Doodle vẫn theo đuổi tra tấn tôi. Cùng với thời gian ở
Mĩ chắc chắn sẽ xuất hiện căn bệnh “Yankee - Doodle - kinh hãi!”.