răng lại khi nghĩ về điều đó; tôi không tin là nên sống trên đời này,
nhưng có lẽ cũng chính vì thế mà tôi có sự đồng cảm thực sự trước mỗi
nỗi khổ đau.
Ít nhất là trong độ tuổi của Michas, khi tôi còn chạy nhảy đuổi theo
lũ chim bồ câu dọc các đường phố hoặc chơi bóng trước tòa thị chính,
tôi còn có thời gian của riêng mình dành cho bồi bổ sức khỏe và trò
vui. Tôi không bị các trận ho hành hạ; khi bị động chạm đến da thịt thì
tôi khóc cho đến lúc người ta ngưng đánh; hơn nữa, tôi được tự do như
con chim và không quan tâm đến bất cứ điều gì. Còn Michas thì thậm
chí điều đó cũng không có. Có thể sẽ có đầy sức sống, dù cho có bị đặt
trên đe dưới búa; cậu sẽ giành được chiến thắng, nếu như được cười
một cách thoải mái trước các trò mà trẻ em chơi, được tham gia vào các
trò đùa nghịch và bay nhảy trong không gian khoáng đãng dưới tia
nắng mặt trời. Nhưng tôi không được chấp thuận làm việc với cậu bé
như vậy. Ngược lại, tôi đã nhìn thấy đứa trẻ đi đến trường và từ trường
trở về ảm đạm, gù lưng dưới sức nặng của những cuốn sách, gắng sức,
với những nét nhăn trên khóe mắt, cố kìm hãm để khỏi bật ra tiếng
khóc - vì vậy, tôi tỏ thái độ thương cảm đối với cậu và tôi muốn làm
nơi trốn chạy của cậu bé.
Bản thân tôi là giáo viên, nhưng chỉ là giáo viên tư thục, và tôi không
biết mình có thể làm gì trên thế giới này nếu như mất cả niềm tin vào
giá trị của khoa học và tác dụng mà nó mang lại. Tôi chỉ nghĩ đơn giản
là khoa học không nên biến thành thảm họa đối với trẻ em, rằng môn
tiếng Latinh không thể thay thế cho không khí và sức khỏe, còn trọng
âm tốt hoặc tồi không thể quyết định số phận và cuộc sống của những
con người nhỏ bé.
Tôi cũng nghĩ rằng ngành sư phạm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của
mình, khi trẻ em cảm nhận được bàn tay dịu dàng dẫn dắt nó, chứ
không phải bàn chân đạp vào ngực nó và giẫm đạp lên mọi thứ, điều
mà ở trong nhà người ta dạy nó phải tôn sùng và yêu thương... Tôi là kẻ
theo chính sách “ngu dân” như vậy và chắc chắn sẽ không thay đổi
chính kiến của mình về vấn đề này, vì tôi đã tự củng cố cho mình lòng