ngồi dậy, gọi cậu quay về phòng và cùng với cậu chuẩn bị lại một lần
nữa toàn bộ số bài học, nhằm làm cho cậu tin rằng đã biết làm bài và
rằng không cần thiết phải bắt mình cảm lạnh như vậy. Thế nhưng bản
thân cậu cuối cùng cũng không biết mình đã biết những gì, cái gì còn
chưa biết. Cậu bé mất sức, gầy còm, vàng vọt và mỗi lúc một thêm cau
có hơn. Thỉnh thoảng xảy ra một chuyện khiến tôi tin rằng không phải
chỉ công việc đè nặng lên người cậu. Ngày tháng qua đi, cậu bé khốn
khổ cố căng sức ra làm hai, nhưng hiệu quả ngày càng teo lại, cậu càng
hay khóc hơn. Những bức thư của bà Maria, mặc dù rất ngọt ngào, lại
càng làm tăng thêm gánh nặng.
“Michas ơi, Chúa đã ban cho con những năng lực khác thường, - mẹ
cậu viết - vì vậy mẹ tin rằng con sẽ không làm mất niềm hi vọng mà mẹ
đặt vào con và con sẽ trở thành niềm an ủi của mẹ và của đất nước.”
Khi cậu bé lần đầu tiên nhận được bức thư như vậy, cậu vồ lấy tay
tôi như người bị chứng co giật và vừa sắp bật khóc vừa nhắc đi nhắc
lại:
- Con biết làm gì đây, thưa thầy Wawrzynkiewicz, con biết làm gì
đây?
Rõ ràng là cậu có thể làm được cái gì cơ chứ? Cậu có thể làm gì khi
sinh ra trên đời này không phải với năng khiếu bẩm sinh về ngoại ngữ
và không biết ứng phó thế nào với môn tiếng Đức?
Đã đến thời gian nghỉ Lễ Các Thánh
; việc đánh giá quý hoàn toàn
không có gì đặc biệt: cậu đạt điểm trung bình kém ở cả ba môn học
quan trọng nhất. Vì những đề nghị khẩn khoản và thề thốt của cậu, tôi
không gửi bản đánh giá đó cho bà Maria.
- Thưa thầy quý mến! - Cậu lên tiếng sau khi chắp hai tay lại - Mẹ
con không biết rằng người ta cho điểm nhân dịp Lễ Các Thánh đâu, đến
Thiên Chúa giáng sinh biết đâu Chúa sẽ thương hại con.
Cậu bé khốn khổ nuôi hi vọng rằng còn có thể cải thiện được điểm
số, và đúng ra cả tôi nữa cũng hi vọng như vậy. Tôi nghĩ rằng cậu sẽ có