Thay vào đó, lực lượng dân tộc chủ nghĩa (Quốc dân đảng) dưới quyền
Tưởng Giới Thạch và quân đội cộng sản dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch
Đông đã đánh nhau để tranh giành quyền lực tối cao cho đến năm 1949, khi
đảng Cộng sản giành thắng lợi và những người theo Quốc dân đảng rút sang
Đài Loan. Cùng năm đó, đài phát thanh Bắc Kinh tuyên bố: “Quân Giải
phóng Nhân dân phải giải phóng mọi vùng lãnh thổ thuộc Trung Quốc, bao
gồm Tây Tạng, Tân Cương, Hải Nam và Đài Loan.”
Mao Trạch Đông tập trung quyền lực tới một mức độ chưa từng thấy
trong các triều đại trước đó. Ông ấy ngăn chặn ảnh hưởng của Nga tại Nội
Mông và mở rộng ảnh hưởng của Bắc Kinh vào sâu lãnh thổ Mông Cổ. Năm
1951 Trung Quốc hoàn tất việc sáp nhập Tây Tạng (một vùng lãnh thổ rộng
mênh mông khác không thuộc về người Hán), và đến thời điểm này bản đồ
trong sách giáo khoa Trung Quốc bắt đầu mô tả Trung Quốc trải dài thậm
chí lấn sang các nước cộng hòa Trung Á. Đất nước đã được ghép nối lại
hoàn chỉnh, Mao dùng phần còn lại của cuộc đời mình để đảm bảo đất nước
tồn tại nguyên vẹn như vậy và củng cố quyền kiểm soát của đảng Cộng sản
trong mọi mặt của đời sống, nhưng - quay lưng lại với phần lớn thế giới bên
ngoài. Đất nước - tiếp tục nghèo khổ đến tuyệt vọng, đặc biệt là các miền -
đất xa ở những vùng duyên hải, nhưng đất nước được thống nhất.
Những người kế nhiệm Mao cố gắng biến cuộc Vạn lý Trường chinh
tới chiến thắng của Mao thành một cuộc trường chinh kinh tế hướng tới sự
thịnh vượng. Vào đầu những năm 1980, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng
Tiểu Bình đã đặt ra thuật ngữ “Chủ nghĩa xã hội với đặc điểm Trung Quốc”
(Trung Quốc đặc sắc Xã hội chủ nghĩa), mà thực tế nên được dịch là “Đảng
Cộng sản toàn quyền kiểm soát trong một nền kinh tế Tư Bản”. Trung Quốc
trở thành một cường quốc thương mại lớn và một gã khổng lồ quân sự mới
nổi. Vào cuối thập niên 1990, Trung Quốc đã được khôi phục sau cuộc thảm
sát ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989, lần lượt lấy lại Hồng Kông và
Macau từ tay Anh và Bồ Đào Nha, và đã có thể nhìn ra xung quanh biên giới