Eramus Darwin từ trần năm 1802, một năm mà nhà động vật học danh
tiếng của Pháp, Lamark, bắt đầu cho ra đời những kết quả đầu tiên của
công trình nghiên cứu về sự tiến hoá. Lamark đã phóng đại công trình của
ông trong quyển Philosophie Zoologique xuất bản năm 1809, và Histoire
naturelle des animaux sans vertèbres năm 1815, cố gắng giải thích sự tiến
hoá bằng ảnh hưởng chung quanh và tính di truyền trong đời sống động vật.
Nhưng những lý thuyết này vì thiếu sự chứng minh như các định luật nên
không được xem là xác đáng.
Nghiên cứu về sự hoá thạch, về sự phân phối địa lý và những kinh
nghiệm trong sự sanh sản, sự kiện mà vấn đề tiến hoá đưa ra đã được ổn
định. Nguyên tắc của Charles Darwin về sự đào thải tự nhiên mà ông đã
vạch ra trong tác phẩm Nguồn gốc các Chủng loại một định luật tự nhiên
cho công trình tiến hoá và một chứng cớ có thể tin được với thí nghiệm và
quan sát.
Sự đào thải tự nhiên từng được Herbert Spencer tóm tắt lại trong câu “Sự
tồn tại của những sinh vật mạnh mẽ nhất trong cuộc tranh đấu để sinh tồn”.
Darwin thì rộng rãi hơn “Sau nhiều năm quan sát các động vật, thực vật tôi
đã thấu hiểu thế nào là định luật tranh đấu để sinh tồn ngự trị ở khắp mọi
nơi. Do đó tôi thấy rằng, các chủng loại sẽ tồn tại nếu gặp được hoàn cảnh
thuận lợi và nếu gặp nghịch cảnh thì sẽ bị diệt chủng, và chính yếu tố hoàn
cảnh đã khiến phát sinh ra những chủng loại mới”.
Con trai thứ ba của Eramus Darwin là Robert trở thành bác sĩ ở
Shrewsbury và tại đây năm 1809, cho ra đời Charles Darwin người đã cho
thế giới một giải pháp độc nhất có thể thực hiện về phương pháp tiến hoá.
Lý thuyết của Darwin về lý do và hành trình tiến hoá được các khoa học
gia tên tuổi chấp nhận, những khám phá của sự di truyền, sự đấu tranh sinh
tồn và biến hoá.
Lý thuyết Darwin còn được dùng để mở mang kiến thức con người về
nhân chủng học và tâm lý học, mặc dù ngày nay lý thuyết đó đã được bổ
túc một vài điểm, nhưng vẫn được công nhận là có giá trị.