sống. Tôi biết rõ rằng lúc anh sắc sảo nhất, ghê gớm nhất là lúc anh ngồi
mấy ngày liền trên chiếc ghế, miệt mài với những suy ngẫm của mình. Đôi
khi tham vọng mãnh liệt đến nỗi khiến khả năng suy đoán của anh đạt tới
cực điểm, thậm chí những người không hiểu anh có thể còn nghi ngờ không
biết liệu anh có phải là siêu nhân hay không mà điều gì cũng biết. Buổi
chiều hôm đó, khi nhìn anh chìm đắm trong âm nhạc, tôi biết rằng những kẻ
tội phạm mà Holmes truy lùng đã đến lúc sa lưới.
Ra khỏi phòng hòa nhạc, Holmes hỏi tôi:
- Watson, chắc anh muốn về nhà ngay phải không?
- Đúng vậy, như thế sẽ tốt hơn.
- Tôi cũng có việc phải làm, mất khoảng một vài tiếng. Vụ việc xảy ra ở
quảng trường Coburg này nghiêm trọng đấy.
- Sao lại nghiêm trọng?
- Sẽ có một vụ phạm tội lớn. Tôi có đủ lý do để tin rằng chúng ta còn kịp
để ngăn chặn chúng. Nhưng hôm nay là thứ bảy nên sự việc sẽ càng trở nên
phức tạp hơn. Vậy nên tối nay tôi cần sự giúp đỡ của anh.
- Vào lúc mấy giờ?
- Khoảng 10 giờ.
- Vậy 10 giờ tôi sẽ đến phố Baker.
- Thế thì tốt quá. Nhưng, Watson ạ! Đây là một vụ nguy hiểm nên anh
hãy mang theo súng đi. - Holmes vẫy tay tạm biệt tôi rồi quay đi và lập tức
mất hút trong đám đông.
Tôi dám chắc rằng mình không hề kém cạnh so với đám bạn của mình,
nhưng khi cộng tác cùng Sherlock Holmes, tôi luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ là
mình thật khờ khạo. Ví dụ như trong chuyện này chẳng hạn, tôi cũng nghe
những gì anh ấy được nghe, thấy những gì anh ấy được thấy. Nhưng qua lời
anh, tôi hiểu rằng anh không chỉ hiểu những chuyện đã xảy ra, mà còn tiên
đoán được những gì sắp đến, trong khi đó đối với tôi, toàn bộ vụ này vẫn chỉ
là một mớ bòng bong. Trên đường trở về nhà ở Kensington, tôi đã suy nghĩ
về mọi thứ, từ câu chuyện chép lại cuốn Bách khoa toàn thư bất thường của
vị khách tóc hung đến chuyến đi tới quảng trường Coburg và cả những dự
báo không lành của Holmes lúc chia tay. Nửa đêm thì có chuyện gì xảy ra?