giờ quên được nàng, không bao giờ quên được tâm hồn kiên nghị và tấm
lòng độ lượng thánh thiện của nàng.
Cách đây vài hôm tôi gặp chàng V. trẻ tuổi, một thanh niên xởi lởi có gương
mặt khá tuấn tú. Chàng mới tốt nghiệp đại học, tuy không nhận mình là
thông thái, nhưng cũng tự coi mình là hiểu biết hơn mọi người. Như tôi cảm
thấy thì chàng cũng chăm chỉ, nói tóm lại, chàng cũng có kiến thức. Nghe
đồn tôi biết tiếng Hy Lạp và biết vẽ - hai cái mốt ở xứ này - chàng đã tìm
đến tôi và trưng ra khá nhiều kiến thức, từ Batteux đến Woođ, từ Piles đến
Winckelmann, chàng quả quyết với tôi là đã đọc xong phần thứ nhất bộ
Luận thuyết của Sulzer, chàng còn có cả một tập bản thảo của Heyne về
việc nghiên cứu thời cổ đại
4. Tôi để mặc chàng nói thỏa thích.
Tôi còn quen một ông già phúc hậu, đó là viên phán quan của ông hoàng cai
trị xứ này, một người thẳng thắn và trung tín. Người ta bảo rằng nếu được
nhìn thấy ông sống giữa đàn con, ông có chín đứa cả thảy, thì đó mới là một
niềm vui lớn cho tâm hồn; đặc biệt người ta tán tụng rất nhiều về cô con gái
đầu lòng của ông. Ông đã mời tôi đến chơi, và thế nào tôi cũng đến trong
một ngày gần đây. Ông ở trong một ngôi nhà săn, cách đây chừng dặm rưỡi,
sau khi vợ ông qua đời ông đã được phép dọn tới đó, vì ở lại thị trấn và
sống trong ngôi nhà cũ là khổ hình đối với ông...
Ngoài ra, tôi cũng gặp một vài người kỳ quặc hết chỗ nói, mọi thứ ở họ đều
không thể chịu nổi, khó chịu nhất là cái cách tỏ tình thân của họ.
Thôi, tạm biệt bạn nhé! Thư này chắc bạn sẽ vừa ý vì tôi toàn kể chuyện.