tôi. Khi nó nói đến “bia”, mọi thứ trở lại với tôi - món bia, con hải
ly, gã anh vợ, và bạn câu của hắn.
“Lạy Chúa, chúng ta cần phải đi lấy bia” - Tôi tán thành.
Paul tiếp tục xoay cái mở chai quanh ngón tay út. Chúng tôi quá
khô họng đến nỗi cảm thấy tai mình kêu khi cố nuốt nước bọt.
Về nội dung cuộc nói chuyện, chúng tôi chỉ lặp lại điệp khúc của
người câu cá mùa hè: “Một chai bia chắc chắn sẽ ngon”.
Có một lối đi uống nước của thú rừng cắt từ bờ xuống đến quãng
sông nơi chúng tôi đã ướp bia của mình, và chúng tôi đi xuống
đó với đôi chân cứng đơ. Paul đi trước, và khi đến gần dưới, đầu
gối có vẻ mềm hơn, nó liền hướng về dòng sông. Chúng tôi đã
ngâm bia dưới dòng nước chảy để làm lạnh bia nhưng không
phải ở chỗ nước chảy quá xiết, vì nó sẽ cuốn chai bia đi.
“Em không thấy nó” - Paul nói khi dò bằng chân. “Ồ, em chưa
tìm đúng chỗ đấy thôi. Nó phải ở đó chứ” - Tôi đáp lại và lội ra để
tìm chai bia cho nó, bản thân cũng nghi ngờ việc mình có thể
tìm thấy.
Nó nói: “Đừng tìm xung quanh nữa, chẳng ích gì đâu. Đó là nơi
chúng ta đã chôn nó”. Em trai tôi chỉ những cái hốc trong lớp
đất sét dưới đáy vũng, nơi chúng tôi đã lôi các tảng đá ra để dằn
lên mấy chai bia. Tôi dò dưới một trong những cái hốc đó bằng
mũi ủng lội nước như thể chai bia có thể trốn khỏi tầm mắt của
tôi trong cái hốc chỉ to bằng cỡ tảng đá nhỏ. Paul cũng làm như
vậy. Không có chai bia nào trốn dưới mấy cái hốc, chúng quá
nhỏ nên mấy chai bia không thể chui lọt được.
Chúng tôi đã chịu khát quá lâu. Giờ đây, đứng ngập đến gối
trong mấy cái hốc dưới lớp đáy bằng đất sét, chúng tôi khum tay
và bắt đầu uống nước sông. Từ chỗ chúng tôi đến chiếc xe vẫn