sắc. Ở tiền cảnh của bức tranh là lon cà phê Hills Bros., sau đó là
những lòng bàn chân mềm mại đỏ hồng quay xuống dưới, hai
cặp mông cháy xèo xèo dưới ánh mặt trời, và ở hậu cảnh là một
đống quần áo với cái quần đỏ của cô ả ở trên cùng. Bên cạnh là
phần còn lại của chai 3-7-77, nóng rẫy khi chạm vào. Không
thấy cần câu hay giỏ câu.
Paul lại nói: “Cầu cho hắn dính thật nhiều vi trùng giang mai,
nhưng cũng cầu cho hắn không bị liệt”.
Tôi chưa bao giờ quăng câu lại ở vũng này, nơi tôi đã coi là một
chốn trú ẩn khi đi săn.
Chúng tôi lội hết quãng đường còn lại đến dải cát mà không
phát ra tiếng ộp oạp, sợ làm hai đứa kia tỉnh giấc. Tôi cho rằng
chúng tôi đã nghĩ: “Khi thức dậy chúng sẽ bắt đầu lột da”. Tôi
biết mình đã nghĩ gì. Tôi đã làm việc mấy mùa hè ở lãnh thổ của
rắn chuông vào cuối tháng Tám, và tôi nghĩ khi chúng thức giấc,
nhận ra trời nóng thế nào, chúng sẽ lột da và bị mù một thời
gian rồi sẽ tấn công bất cứ cái gì chúng nghe thấy. Tôi nhớ là
mình đã luôn nghĩ rằng chúng sẽ rất nguy hiểm khi thức giấc, vì
thế tôi bước quanh chúng một cách thận trọng, giữ khoảng cách
an toàn.
Khi chúng tôi đến gần, ở hai đứa ấy hiện ra những bộ phận
không thể nhìn thấy từ bờ. Từ chúng mọc ra đôi chân ở giữa
mông và bàn chân, những cái lưng và cổ, đặc biệt là cổ ở giữa
mông và tóc. Chúng đỏ cho đến tận tóc, những lọn tóc xoăn.
Thật khó biết được tóc chúng quăn tự nhiên hay quắn lại dưới
ánh nắng. Tóc bung ra từng sợi như được uốn bằng cái kẹp uốn
tóc nóng.
Paul tiến tới để xem trong chai 3-7-77 còn lại gì, trong khi đó, tôi
đứng lại nghiên cứu giải phẫu tạo hình. Mỗi sợi tóc là một sự