Cuối cùng, chúng tôi hiểu ý nhau. Nó sẽ lội sông trở lại và câu ở
phía bên kia. Cả hai chúng tôi đều nên câu thật nhanh, vì có lẽ
cha đang chờ chúng tôi. Paul ném điếu thuốc xuống nước rồi
bước đi mà không chờ xem liệu tôi có kéo được con cá lên không.
Chẳng những tôi ở sai phía của dòng sông để câu với những con
bọ đá chết chìm, mà Paul còn là tay câu cuốn đủ giỏi để câu được
phần lớn phía bên tôi từ vị trí của nó. Nhưng dù sao tôi cũng câu
được thêm hai con nữa. Chúng bắt đầu chỉ là hai loáng nước nhỏ
trông như con cá nhỏ ăn mống, thế nhưng thực tế lại là những
đường cong gãy của những con cầu vồng to ở dưới nước. Sau khi
câu được hai con này, tôi ngừng câu. Tổng cộng được mười con,
và ba con cuối cùng là ba con tuyệt nhất mà tôi từng câu được.
Chúng không to nhất hay đẹp nhất, nhưng chúng là ba con cá
tôi câu được nhờ em tôi lội qua sông để đưa cho tôi con mồi và
bởi vì chúng là những con cá cuối cùng tôi câu cùng em mình.
Sau khi lau mấy con cá, tôi tách ba con cá này ra bằng một lớp cỏ
và bạc hà dại. Sau đó, tôi nhấc cái giỏ câu nặng trịch, cử động vai
cho đến khi cái quai giỏ không còn cấn vào da thịt, và nghĩ:
“Mình đã kiếm đủ cho ngày hôm nay. Mình sẽ đi xuống phía
dưới, ngồi trên bờ cạnh cha và nói chuyện với cha”. Sau đó tôi
nghĩ thêm: “Nếu cha không cảm thấy thích nói chuyện, mình sẽ
chỉ ngồi chơi với ông”.
Tôi có thể thấy mặt trời phía trước. Sự xuất hiện đột ngột của
ánh sáng làm cho khi nhìn từ bóng râm, tôi và dòng sông chảy
sâu bên dưới trông như trồi lên mặt đất. Mặc dù cho đến giờ tôi
chỉ có thể thấy ánh nắng chứ không nhìn thấy gì trong cái vùng
nắng chói chang ấy, tôi vẫn biết cha tôi đang ngồi đâu đó trên bờ
sông. Tôi biết một phần vì ông và tôi có chung tần số, thậm chí
còn ngừng câu cùng lúc. Mặc dù chưa thể nhìn thấy gì ở phía
trước, tôi vẫn chắc là ông đang ngồi đâu đó ngoài trời nắng và