ngày, nó có thể ngắm các cô gái mặc đồ tắm và hò hẹn với các
nàng vào buổi tối.
Đến lúc chọn nghề, Paul đã trở thành phóng viên của một tờ báo
ở Montana. Trước đó, nó đã sớm nhận ra mục đích sống của đời
mình; trong suy nghĩ của em trai tôi, mục đích này không mâu
thuẫn với câu trả lời đầu tiên trong sách Giáo lý vấn đáp
Westminster.
Hiển nhiên khác biệt giữa chúng tôi lẽ ra đã không quá lớn nếu
chúng tôi không ở trong một gia đình gắn bó. Ở một bên của bức
tường trong trường Chúa nhật của chúng tôi có viết câu: Thiên
chúa là tình yêu.
Chúng tôi luôn cho rằng năm chữ này được viết riêng cho gia
đình bốn người của chúng tôi và chẳng ăn nhập gì với thế giới
bên ngoài. Tôi và em trai tôi nhanh chóng phát hiện ra rằng ở
ngoài đó đầy những kẻ vô lại, càng xa khỏi Missoula, Montana
thì càng nhiều hơn. Chúng tôi cũng ý thức được rằng mình rất
cứng rắn, càng trưởng thành, nhận thức đó càng lớn lên, ít nhất
là cho đến khi chúng tôi ngoài hai mươi tuổi và có thể còn lâu
hơn, lâu hơn rất nhiều. Nhưng ngay sự cứng rắn của chúng tôi
cũng khác nhau. Tôi cứng rắn vì được trui rèn trong môi trường
khắc nghiệt là Kiểm lâm Hoa Kỳ và các trại khai thác gỗ. Từng
buổi sáng trôi qua, tôi và mẹ tôi kinh hãi chứng kiến vị mục sư
Scotland cố ép đứa con nhỏ của mình ăn cháo bột yến mạch.
Cha tôi cũng kinh hãi, lúc đầu là vì đứa con ruột của ông không
chịu dùng thức ăn của Chúa, và sau một thời gian là vì đứa con
nhỏ xíu của ông tỏ ra cứng rắn hơn ông. Khi vị mục sư nổi điên
lên, đứa bé cúi đầu trên đĩa thức ăn và chắp tay như thể cha nó
đang đọc kinh trước bữa ăn. Chỉ có một biểu hiện cho thấy nó
cực kỳ giận dữ: Môi nó sưng lên. Cha tôi càng phát hỏa thì món
cháo càng nguội lạnh, cuối cùng thì cha tôi bùng nổ.