nào”. Vì thế, tôi tự nói với chính mình như cầu nguyện: “Mình sẽ
thử thêm một vũng nữa”.
Tôi không thích cầu nguyện mà lời cầu nguyện của mình không
thành sự thật, vì thế tôi đi một quãng dài trên bờ sông để đến
cái vũng cuối cùng mà mình đã cầu nguyện này. Khi tôi trông
thấy nó, thực ra tôi không nhìn kỹ, bởi vì nó là một quãng nước
bình thường, nhưng khi đột nhiên nhìn lại, tôi có thể trông thấy
cá nhảy khắp vũng. Hầu như ngay lúc ấy tôi ngửi thấy mùi gì
đó, một mùi hôi. Thật ra, vào những ngày nóng bức, mấy cái
vũng rất hôi. Tôi không muốn đến gần hơn, nhưng vào thời
điểm này, mấy con cá không tồn tại vẫn đang nhảy nhót ngay
trước mắt tôi. Tôi đi vòng qua con hải ly chết để xuống bờ vũng.
Tôi biết mình đã tìm được đúng chỗ.
Khi nhìn thấy con hải ly chết, tôi biết tại sao cá lại nhảy. Ngay cả
một người câu cá cuối tuần cũng biết con hải ly chết đã thu hút
cả một bầy ong vo ve sát mặt đất và mặt nước. Ở đẳng cấp câu cá
của mình, tôi biết mình đã có con mồi phù hợp để trông giống
như chúng, và tôi không nghĩ rằng em tôi có loại mồi đó. Nó
không đem theo nhiều mồi giả - tất cả đều giắt trên dải mũ của
nó, nhiều nhất là hai mươi đến hăm lăm con, nhưng thật sự chỉ
có bốn hay năm loại, bởi vì mỗi loại có nhiều cỡ. Chúng là thứ
mà những người câu cá gọi là “loại phổ thông”, là loại mà người
câu cá giỏi có thể bắt chước rất nhiều loại côn trùng và nhiều
giai đoạn khác nhau của vòng đời côn trùng, từ ấu trùng cho
đến khi mọc cánh. Cách nhìn mồi giả của em tôi rất giống cách
cha tôi, một người thợ mộc giỏi, nhìn các đồ nghề của mình -
ông khăng khăng rằng bất cứ ai cũng có thể phô diễn kỹ năng
của thợ mộc nếu có đủ đồ nghề. Nhưng tôi không phải là một
người câu cá đủ giỏi để coi thường đồ nghề. Tôi đem theo một
hộp đầy mồi giả, loại “phổ thông” và cả loại mà người câu cá gọi