mình để tránh thảm họa, đồng thời giúp ta cảm thấy thông cảm với
những ai đã gặp cảnh đó. Khi rời khỏi rạp, chúng ta sẽ không bao giờ
còn khuynh hướng dùng một giọng dễ dãi, trịch thượng khi nói về
những người sa ngã và thất bại.
Aristotle thấu hiểu rằng mức độ đồng cảm mà chúng ta dành cho
cú ngã ngựa của người khác sẽ tỉ lệ thuận với việc chúng ta dễ dàng
hay khó khăn thế nào để tưởng tượng ra mình, dưới cùng hoàn cảnh
đó, cũng gây ra lỗi lầm tương tự. Làm sao một người minh mẫn, bình
thường lại gây ra những điều như vậy, chúng ta có thể tự hỏi khi nghe
nói về những người phạm lỗi lầm ngoài đời thực -từng vội vàng kết
hôn, ngủ với một người trong chính gia đình mình, giết hại tình nhân
trong một con ghen điên dại, nói dối chủ nhân, ăn cắp tiền hay để cho
lòng tham nổi lên hủy hoại cả sự nghiệp. Tự tin về những bức tường
gang thép ngăn cách bản tính và hoàn cảnh của chúng ta với họ, thư
thái ngồi trong cái yên êm ái cao trên lưng ngựa, ta đã đổi khả năng
khoan dung của mình để lấy về sự thờ ơ và nhạo báng.
Bởi thế, nhiệm vụ của người viết bi kịch là buộc chứng ta phải
đối đầu với một chân lý rất khó chịu đựng: mọi sự dại dột hay thiển
cận mà bất cứ con người nào trong lịch sử đã vấp phải đều có thể được
truy ngược về một khía cạnh nào đó trong bản tính tập thể của chúng
ta. Bởi lẽ, mỗi cá nhân đều mang trong mình trọn vẹn thân phận loài
người, cả những mặt xấu nhất và tốt nhất của nó, bất cứ ai trong chúng
ta cũng có thể làm bất cứ điều gì, hoặc không làm gì cả, nếu được đặt
trong hoàn cảnh thuận lợi - hay nói đúng hơn là trong nghịch cảnh vô
cùng sai trái. Một khi người xem kịch trải nghiệm được điều hiển
nhiên này, họ có thể sẵn sàng bước xuống từ trên cao yên ngựa, và
thấy những năng lực đồng cảm và khiêm tốn của họ trở lại và được
tăng cường. Họ có thể chấp nhận việc cuộc sống của chính mình sẵn
sàng bị xáo trộn ra sao nếu ngày nào đó, một vài nét tính cách đáng
hối tiếc của họ, mà cho đến nay vẫn chưa gây rắc rối nghiêm trọng
nào, xuất hiện trùng khớp với một tình huống cho phép chúng giành