sĩ này. Phản ứng ấy là cá tính của vị hoàng đế: khi điều đình Hiệp ước
Amiens với nước Anh năm 1802, Napoleon đã tìm cách thêm vào một
điều khoản chỉ rõ rằng tất cả giới biếm họa ở Anh vẽ ông phải bị đối
xử theo cách với những kẻ sát nhân và giả mạo tranh, sẽ bị dẫn độ và
khởi tố ở Pháp. Những nhà đàm phán người Anh, bối rối trước yêu
cầu này, đành từ chối việc sửa đổi.
2.
Louis-Philippe và Napoleon hẳn sẽ không phản ứng quá kịch liệt nếu
như óc hài hước chỉ là một trò chơi. Thực tế, như các nghệ sĩ hài và
các mục tiêu của họ từ lâu thừa nhận, những truyện cười là phương
tiện vô cùng hiệu quả để gieo một lời phê bình, về cơ bản chúng là
một cách khác để than phiền: về sự ngạo mạn, độc ác hay khoa trương,
về sự xa rời phẩm hạnh và lương tri.
Nghệ thuật hài có sức công phá nhất là khi nó truyền đạt một bài
học trong khi dường như chỉ để giải trí. Những truyện tranh xuất sắc
không bao giờ truyền tải những bài thuyết giáo mô tả sự lạm dụng
quyền lực; thay vào đó, chúng khiêu khích độc giả thông qua tiếng
cười thừa nhận sự thích đáng trong những lời than phiền mà truyện
tranh nhắm tới nhà cầm quyền.
Thêm nữa (ngay cả khi bỏ tù Philipon), tính ngây thơ rõ ràng của
những câu chuyện cười cho phép truyện tranh ngang nhiên truyền tải
những thông điệp có thể nguy hiểm hoặc bất khả nếu trình bày trực
tiếp, về lịch sử, chẳng hạn, những anh hề trong triều có thể khơi gợi
tiếng cười trong cung đình về những vấn đề nghiêm trọng mà ngay cả
các quan đại thần cũng không bao giờ dám bóng gió. (Khi vua James I
của Anh, người điều hành một nhóm tăng lữ nổi tiếng suy đồi, gặp khó
khăn khi vỗ béo một con ngựa của mình, thì anh hề Archibald
Armstrong đã khuyên rằng, ông chỉ cần biến sinh vật này thành một
giám mục là nó sẽ nhanh chóng có được cân nặng cần thiết.) Mang
cùng suy nghĩ như vậy trong Jokes and Their Relationship to the