thuộc phong tục vùng miền biến một người khả tín trở nên thấp kém,
kể cả người ở cấp bậc thấp nhất, nếu thiếu chúng. Chẳng hạn, một
chiếc áo sơ mi vải lanh, nói nghiêm khắc, không phải là vật cần thiết
cho đời. Tôi cho là những người Hy Lạp và La Mã vẫn sống thoải mái
mặc dù họ không có chiếc sơ mi vải lanh nào. Nhưng ở thời hiện đại,
khắp phần lớn châu Âu, một người làm công nhật có uy tín hẳn sẽ xấu
hổ khi xuất hiện nơi công cộng mà không có một chiếc sơ mi bằng vải
lanh, đến nỗi có cảm tưởng như việc thiếu thốn một thứ như thế biểu
thị mức độ ô nhục của nghèo khó đến độ, điều này giả định, không ai
có thể rơi vào nếu không có hạnh kiểm cực kỳ tồi tệ... Vì thế, nói đến
vật thiết yếu, tôi hiểu nó không chỉ là những thứ thuộc về nhu cầu tự
nhiên, mà là những thứ lệ thường khuôn phép được thiết lập, trở nên
cần thiết cho cả hạng người thấp kém nhất.”
Kể từ thời của Smith, giới kinh tế học gần như nhất trí với ý
tưởng cho rằng thứ xác định rõ nhất, và góp thêm nỗi cay đắng vào
thân phận của người nghèo không hẳn là nỗi đau đớn thể xác trực tiếp
bao hàm, mà là nỗi ô nhục đi kèm theo những phản ứng tiêu cực của
người khác về tình trạng của họ - nói cách khác, cái cảm thức không
thể tránh khỏi rằng sự nghèo khó của họ đã coi thường cái Smith gọi
là “các quy tắc thiết yếu về sự đứng đắn”. Trong The Affluent Society
(Xã hội sung túc) (1958), J. K. Galbraith đề xuất, với một niềm tôn
trọng dành cho Smith rằng: “Người ta nghèo xơ xác bất cứ khi nào thu
nhập của họ, kể cả đủ để tồn tại, rơi thấp hẳn dưới ngưỡng của cộng
đồng. Từ đó họ không thể có những gì mà cộng đồng lớn hơn xem là
vật dụng cần thiết tối thiểu cho sự đứng đắn; và bởi thế họ không thể
tránh khỏi sự đánh giá của cộng đồng lớn rằng họ thiếu đứng đắn.”
3.
Cái ý niệm cho rằng “đứng đắn” phải gắn với giàu có - và “thiếu đứng
đắn” với nghèo khó - là tiêu điểm sâu sắc của một dòng bất mãn hoài
nghi trước lý tưởng địa vị thời hiện đại. Những người phê bình về hệ