đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Trong cùng thời kỳ đó, người Anh Điêng
Montagnais ở bờ Bắc sông Saint Lawrence trao đổi 12.000 đến 15.000
tấm da thú mỗi năm cho những thương lái Pháp và Anh ở Tadoussac.
Nhưng chất lượng cuộc sống của họ không cải thiện được như lượng
hàng hóa được bán tăng lên. Tỉ lệ tự sát và nghiện rượu tăng, các cộng
đồng bị rạn nứt và các phe phái gây gổ lẫn nhau về những chiến lợi
phẩm thu được từ người Âu châu. Các tộc trưởng không cần lời dẫn
giải của Rousseau để hiểu chuyện gì đã diễn ra, mặc dù vô hình trung
họ tán thành với phân tích của ông. Đã có những lời kêu gọi người
Anh Điêng từ bỏ thói mê mẩn “xa xỉ phẩm” của châu Âu. Vào thập
niên 1760, thủ lĩnh các bộ tộc Delaware ở miền Tây Pennsylvania và
thung lũng Ohio tìm cách hồi sinh lối sống của cha ông họ. Những lời
tiên tri cảnh báo rằng tộc Delaware sẽ bị tận diệt nếu họ không dứt bỏ
được sự phụ thuộc vào giao thương. Nhưng đã là quá trễ: những người
Anh Điêng, với cấu tạo tâm lý không khác những con người khác, đã
ngã gục trước sức quyến rũ êm dịu của những món trang sức từ nền
văn minh hiện đại và ngừng lắng nghe giọng nói khẽ khàng từ tâm
khảm, thầm nhắc về những nguồn vui khiêm nhường của cộng đồng
và vẻ đẹp của những hẻm núi thoáng đãng trong ánh chiều chạng
vạng.
6.
Những người ủng hộ xã hội thương mại luôn có một câu trả lời cho
những ai cảm thông với người Anh Điêng châu Mỹ, và với bất kỳ ai
khác nghĩ đến chuyện chỉ trích các tác động băng hoại của một nền
kinh tế tân tiến: không ai ép buộc người Anh Điêng phải mua những
vòng đeo làm bằng thủy tinh Venice, dụng cụ đục băng, súng, ấm
nước, chuỗi hạt, cuốc hay gương. Không ai ngăn họ đừng sống trong
những túp lều và khiến họ khao khát sở hữu những căn nhà gỗ có
những cổng vòm và hầm rượu. Người Anh Điêng tự nguyện từ bỏ
cách sống chừng mực, giản đơn của họ - mà tự thân điều đó ám chỉ