in Norfolk” (Chôn-Lư, hay Sơ luận về những lư tro cốt được chôn mới
tìm thấy ở Norfolk).
“Trong một cánh đồng ở ngôi làng cổ Walsingham, cách đây mới
vài tháng, người ta đào được chừng từ bốn đến năm chục cái lư,”
Browne thuật lại bằng thứ tiếng Anh uyển chuyển, trầm bổng đặc
trưng của mình, “được ký thác vào mặt đất khô và nhiều cát, sâu chưa
tới nửa thước, không cách xa nhau... một số đựng hai pao xương, có
thể phân biệt đâu là đầu lâu, xương sườn, xương hàm, xương đùi và
răng.” Điều gây hứng thú cho Browne là đặc điểm nhận dạng của
người chết, mà vào thời của họ đó là những người giàu nhất và quan
trọng nhất vùng, đã hoàn toàn mất hết dấu vết lịch sử. Một số người
nêu giả thuyết rằng những di hài đó là của người La Mã, vì địa điểm
chôn không xa một đơn vị đồn trú La Mã ngày xưa; tuy vậy, Browne
phỏng đoán rằng khả năng lớn hơn họ là “tổ tiên người Anh, Saxon
hay Đan Mạch của chúng ta”. Dù thế nào, không ai có thể biết được
tên họ, chưa nói đến họ đã sống và chết ở thế kỷ nào. Từ đó, Browne
chuyển sang suy ngẫm về sức mạnh của thời gian hòng chế giễu tất cả
đòi hỏi của con người về thành tựu hay sự nổi bật trên trần thế: “Ai
biết số phận đống xương của anh ta, hay liệu anh ta sẽ được chôn xới
bao nhiêu lần?” ông hỏi, thách thức các nhà quý tộc đã chết, những
người hẳn từng một lần cảm thấy tự mãn về vị trí của họ trên đời, từng
tổ chức những bữa tiệc chiêu đãi, từng chơi đàn lia và hãnh diện ngắm
mình trong gương vào buổi sáng. “Không có thuốc giải độc nào cho
chất á phiện của thời gian,” Browne nhắc nhở. “Các thế hệ qua đi
trong khi những cái cây vẫn đứng đó, những gia đình ngày xưa chẳng
còn lại gì ngoài ba gốc sồi.” Thay vì tìm cách đạt được danh vọng trên
trần thế, nghĩa vụ của Kitô hữu chân chính là tạo một ấn tượng “không
phải trong hồ sơ lưu của con người” mà “trong sổ đăng ký của Chúa”.
Đó có vẻ là một thông điệp sầu bi, nhưng có lẽ nỗi sầu bi dành
cho những ai trói buộc đời mình vào những lạc thú của một địa vị cao
sang còn lớn hơn nhiều so với những ai bị xã hội ruồng rẫy và do đó