người nghèo. Trái với tư tưởng kinh tế nhiều thế kỷ trước đó,
Mandeville giả tưởng rằng chính người giàu mới thực sự đóng góp
phần lớn cho xã hội, đến độ sự chi tiêu của họ mang lại việc làm cho
tất thảy những người ở dưới họ và nhờ đó giúp tầng lớp yếu đuối nhất
sống sót. Không có người giàu, người nghèo sẽ sớm bị vùi xuống mồ
mà thôi. Mandeville không có ý định nói rằng người giàu tử tế hơn
người nghèo - thực ra, ông đang hoan hỉ chỉ ra người giàu có thể hão
huyền, độc địa và hay thay đổi như thế nào. Khao khát của họ không
có điểm dừng, họ ao ước được tán thưởng và không thể hiểu rằng hạnh
phúc không bắt nguồn từ việc nắm vật chất trong tay. Tuy vậy, việc họ
mưu cầu và thâu nhận của cải rõ ràng là có ích cho xã hội hơn so với
công việc nhẫn nại, không sinh lợi của những người lao động. Khi
đánh giá giá trị của một người, đừng nhìn vào tâm hồn anh ta (như các
nhà đạo đức Kitô giáo thường làm) mà hãy nhìn vào tác động của anh
ta đối với những người khác. Dùng các tiêu chuẩn mới này để đánh
giá, những ai tích lũy tài sản lớn (nhờ thương mại, công nghiệp hay
nông nghiệp) và chi tiêu phóng khoáng (vào những thói xa hoa ngớ
ngẩn, hoặc vào việc xây dựng những nhà kho không cần thiết hay
những cơ ngơi miền thôn quê) rõ ràng là mang lại lợi ích nhiều hơn so
với người nghèo. Như tiêu đề tác phẩm của Mandeville chỉ ra, đó là
một trường hợp về “tật xấu cá nhân, lợi ích công cộng”. Ông lý giải:
“Cái đám quan lại ham mê nhục dục không biết đâu là giới hạn của sự
xa xỉ, đám kỹ nữ sáng nắng chiều mưa cứ mỗi tuần lại phát minh ra
mốt mới... đám tay chơi phóng đãng và bọn thừa kế hoang đàng
[những người giúp ích cho người nghèo nhất]. Chính hắn, kẻ mang
nhiều phiền toái nhất cho hàng ngàn người xung quanh và sáng tạo ra
sản phẩm đòi hỏi tỉ mẩn nhất, dù đúng hay sai, vẫn là người bạn lớn
lao nhất của xã hội. Các tiểu thương bán vải vóc, thợ bọc đệm, thợ
may và nhiều người khác hẳn sẽ chết đói chỉ trong nửa năm nếu như
cùng một lúc, lòng kiêu hãnh và sự xa xỉ bị xua đuổi khỏi quốc gia.”