khuyến mại thêm chút, là hiếm khi nào cáo bệnh). Ở Mỹ, khoảng một
nửa nhân viên làm trong ngân hàng bán lẻ - tức 500 nghìn người - mất
việc từ năm 1980 đến 1995, chủ yếu là nhờ việc phát minh ra chiếc
máy hiệu quả và sáng loáng này.
Như thể tất cả điều đó chưa đủ rắc rối, những người làm thuê còn
phải gánh thêm nỗi lo về những hậu quả của áp lực buộc các công ty
phải đưa ra thị trường những sản phẩm mới và tốt hơn. Trong suốt
chiều dài lịch sử, vòng đời của sản phẩm và dịch vụ vượt qua vòng đời
của những con người sản xuất và tiêu thụ chúng. Ở Nhật, kimono và
jinbaori
vẫn không thay đổi suốt bốn trăm năm. Ở Trung Quốc, vào
thế kỷ 18 người ta vẫn mặc chính xác những gì tiền nhân họ mặc vào
thế kỷ 16. Từ năm 1300 đến 1660, thiết kế của cái cày không thay đổi
ở khắp Bắc Âu. Sự ổn định sản xuất như thế hẳn đã mang lại cho thợ
thủ công và người lao động cảm giác yên tâm rằng sản phẩm của họ sẽ
tồn tại lâu hơn họ. Tuy vậy, từ giữa thế kỷ 19, vòng đời sản phẩm đã
rút ngắn rõ rệt, và xu hướng ấy đã làm lung lay lòng tự tin của công
nhân về việc bảo toàn nghề nghiệp của họ trong dài hạn.
Việc các sản phẩm và dịch vụ mới ra đòn hạ gục bất ngờ và quyết
định với các sản phẩm và dịch vụ cũ đã xảy ra ở hầu hết lĩnh vực trong
nền kinh tế, khi các kênh đào trở nên lỗi thời do phát minh ra đường
ray tàu hỏa, đường bộ lỗi thời do sự ra đời của máy bay, xe ngựa lỗi
thời trước sự phát triển của xe hơi và máy đánh chữ gặp phải sự bùng
nổ của máy tính cá nhân.
Thị trường đam mê vận động và thay đổi đã đặt gánh nặng lên
các công ty vì chi phí phát triển sản phẩm quá lớn, đến nỗi sự tồn tại
của chính họ buộc phải dựa vào việc ra mắt thành công từng sản phẩm
một. Giống như một tay cờ bạc phập phồng lo sợ, thay vì được đong
xèng sau một cú thắng lớn, lại bị người ta chĩa súng bắt phải tiếp tục
đánh cược tài sản của mình, thì một tập đoàn cũng phải giữ mọi thứ
vận hành trông chờ vào vài cú cược, thậm chí là một canh bạc duy