không, tôi không có thời gian để trả lời bởi vì bác sĩ đang cố ngăn không cho
tôi vào phòng cấp cứu còn tôi thì biết Suzie cần tôi ở bên. Tôi nhìn thấy mắt con
bé ánh lên nỗi hoảng sợ.
Họ tiêm cho cháu một mũi adrenalin. “Đau lắm phải không con,” tôi bảo.
Cháu gật đầu. Sau đó họ thòng một cái ống vào cổ họng cháu. Tôi nói “Mẹ biết
cái ống đó làm con đau, nhưng nó sẽ giúp cho con khỏe lên”. Cháu vẫn không
thở được bình thường và họ cho cháu thở bằng oxy. Tôi nói “Lạ chưa xung
quanh con quá chừng ống dẫn luôn. Nhưng cái này cũng giúp con thở dễ hơn.”
Sau đó tôi vòng tay qua dây khóa của bình oxy và giữ tay cháu và bảo “Mẹ sẽ
không rời con đi đâu. Mẹ ở đây với con. Mẹ sẽ ở đây với con ngay cả khi con
ngủ. Mẹ sẽ ở đây đến chừng nào con còn cần mẹ.”
Hơi thở của cháu từ từ trở nên thông suốt hơn, nhưng thể trạng vẫn còn suy
kiệt. Và tôi ở bên cháu thêm 72 giờ nữa, hầu như không ngủ. Ơn Chúa, cháu đã
vượt qua được cơn nguy.
Tôi biết rằng nếu không tham dự những buổi hội thảo thì chắc hẳn sự việc
đã khác hẳn đi. Tôi đã lâm vào một tình thế hoảng loạn tột cùng. Bằng cách
nói với cháu như cái cách tôi đã nói, bằng cách nói cho cháu biết là tôi hiểu
cháu trải qua những gì, tôi đã xoa dịu trấn an cháu, để cháu có thể đón nhận
những phương pháp trị liệu mà cháu buộc phải trải qua.
Tôi thật sự cảm thấy mình đã góp phần cứu sống Suzie.