đợi như vậy là quá lắm đó!
Tôi đi bộ dọc theo đại lộ Cummings, tim đập rộn ràng. Làm sao mà Alma,
cô gái tóc vàng óng mắt xanh biếc với má lúm đồng tiền và thân hình thanh
mảnh ấy có thể sống hạnh phúc cạnh Abe Pritchard? Nàng đang còn ở lứa
tuổi đôi mươi, ríu rít như con chim hoạ mi trong khi Abe già khụ, tuy mới
ngoại tứ tuần mà đầu đã bắt đầu hói rọi phải mang tóc giả trông cứ như con
cú con cáo. Thật là một lão chán ngắt đáng ghét.
Xin hỏi thử các bạn, gã có quyền gì mà đòi nàng phải chung thuỷ một
lòng một dạ yêu gã? Đã vậy gã bần tiện ấy còn đòi kiểm tra thử xem nàng có
đến rạp xem phim thật hay không, và soi mói xem có đồng 10 đô giả nào do
gã làm ra nằm tại quầy bán vé hay không nữa chớ! Các bạn nghĩ xem tôi
làm sao có thể chịu nổi gã!
Tôi cũng kể các bạn nghe thêm về Abe Pritchard. Thật ra tôi cũng chẳng
biết nhiều về gã, thậm chí ngay cả tên gã tôi cũng không dám bảo đảm có
phải đúng là tên thật hay không. Tôi chỉ biết gã khoe là du khách đến đây
thưởng lãm cảnh đẹp cùng cô vợ trẻ, nhân thể nếu thấy được sẽ tính chuyện
làm ăn lâu dài luôn. Chuyện mới xảy ra cách nay hai tuần. Tôi thoạt đầu tình
nguyện làm hướng dẫn viên du lịch cho cặp vợ chồng, chủ yếu là cho cô vợ
Alma trông đến là dễ thương, để có dịp tán gẫu cùng cô và biết đâu… Quả
nhiên tôi đã cua được nàng, đồng thời Abe cũng ngày càng tỏ ra thân tình
với tôi, hé lộ chuyện gã chuyên làm những tờ đô-la giả, và nếu tôi chịu
mang đi tiêu thụ, tôi cũng sẽ có chút vốn lận lưng. Đang lãnh lương thất
nghiệp, tôi đánh liều nhắm mắt đưa chân một phen thử thời vận.
Thật ra chiều thứ Năm, tôi quả có mua vé xem phim cùng với Alma, để
tiêu bớt 10 đô giả, nhưng chúng tôi đâu dại gì tốn thời gian chui vô rạp, về
hú hí ở khách sạn chẳng vui vẻ hơn hay sao?
Tôi đón tắc-xi và để túi xách đựng đồ tại khách sạn. Tài xế nhận tờ 10 đô
và tôi đưa thêm tờ 10 đô nữa cho quầy giải khát khi kêu một chai bia. Lên
phòng, ăn qua quít rồi không kịp ngả lưng, tôi tiếp tục đi bộ một vòng quanh
khu phố dọc con đường Ames Street đến tận trạm xe điện ngầm, quẹo trái