con bé tỉnh giấc và hủy mất cuộc hẹn ngẫu hứng. Henry sẽ không vui cho
mà xem.
Tất nhiên, nếu con bé tỉnh giấc thì Ginnie có cớ không phải đi.
Có hay không?
Nhưng cô không thể làm vậy, lợi dụng con gái làm mánh khóe chống lại
chồng mình. Tuy vậy, cô vẫn tự mỉm cười, thầm nghĩ: Đó là một kế hoạch
hay đấy chứ.
Năm phút sau, họ vào hành lang được chiếu sáng lờ mờ, rung chuông cửa
nhà Bassett. Cửa mở. Chạm má, nắm tay, chào hỏi.
Carole Bassett mặc quần jean và áo cổ tròn. Mắt Ginnie nhìn bộ cánh đó
rồi nhìn Henry nhưng anh ta không nhìn thấy ánh mắt trách móc hay đôi môi
mỏng tô son bóng đầy chế nhạo của cô. Hai người đàn ông đi về phía quầy
bar nơi cất thứ chất lỏng kỳ diệu và – tạ ơn Chúa – Carole rõ ràng vẫn nhớ là
Ginnie chỉ uống rượu vang và đẩy một ly Pinot Gris vào tay cô. Họ chạm
cốc, nhấp rượu, và đi vào phòng khách, một phần nhìn ra công viên Trung
Tâm. (Henry vẫn bực mình vì nhà Bassett, mới chuyển đến tòa nhà này, lại
vô tình quyết định chuyển đến đây đúng lúc căn hộ đó vừa trống. Nhà của
Henry và Ginnie thì nhìn ra con phố 81 bình dân.)
Hai người đàn ông ngồi xuống cạnh bạn đời của mình.
“Ginnie, cô có muốn thử một chút không?”
“Có chứ. Cô ấy mê scotch lắm.”
Và Palmolive là nhãn hiệu yêu thích của tôi. Ngay sau là Duz. “Tôi vừa
uống rượu vang mất rồi. Không muốn phá hỏng trải nghiệm đó.”
“Cô chắc chứ?” Arnie nói. “Tám trăm đô một chai lận đấy. Đấy còn là vì
người trung gian mua được cho tôi với giá hời. Ý tôi là hời đấy.”
Carole hạ giọng nói, mắt mở to, “Anh ta đã mua một chai Pétrus cho bọn
mình với giá một nghìn đô.”
Henry phá lên cười. “Hai người đùa tôi chắc?”
“Thề danh dự.”
Ginnie để ý thấy chồng mình liếc nhìn đúng chỗ Carole vừa làm dấu chữ
thập. Chỉ là một cái áo cổ tròn, không sai, nhưng khá bó và làm bằng lụa
mỏng.