Viên sĩ quan tóc vàng tiếp tục đọc các dòng chữ nhỏ xíu. “Đất mùn là giai
đoạn áp chót khi các chất hữu cơ phân hủy.”
Cô nhớ lại một cuộc trao đổi giữa Rhyme và Pulaski cách đây vài năm khi
anh chàng lính mới dùng từ “áp chót” với ý nghĩa “cuối cùng”, không đúng
với nghĩa gốc của nó là trước giai đoạn cuối cùng một giai đoạn. Ký ức ấy
chua xót hơn cô nghĩ.
“Tức là sẽ sớm thành đất.”
“Gần như vậy. Và nó đến từ một địa điểm khác. Nó không khớp với các
mẫu thử mà cô hay đội Thu Thập Bằng Chứng thu thập được trong và xung
quanh trung tâm mua sắm, cửa dỡ hàng, hay nhà hàng.” Anh ta vẫn tiếp tục
đọc. “Chà, không ổn lắm rồi.”
“Cái gì thế?”
“Dinitroaniline.”
“Chưa từng nghe đến.”
“Có nhiều công dụng, như làm thuốc nhuộm hoặc thuốc trừ sâu. Nhưng
ứng dụng hàng đầu là thuốc nổ.”
Sachs chỉ vào tấm bảng ghi lại các bằng chứng ở chính hiện trường gây
án, công trường xây dựng nơi nghi phạm 40 đập Todd Williams tới chết gần
một câu lạc bộ cách đây vài tuần. “Nitrat amoni.”
Phân bón – và thành phần gây nổ chính trong các quả bom tự chế, như
quả bom đã phá hủy trụ sở chính quyền thành phố Oklahoma những năm 90.
“Vậy nên,” Pulaski chậm rãi nói, “cô có nghĩ nó không chỉ là một vụ
cướp giật? Nghi phạm, tôi không biết nữa, đã mua các thành phần tạo bom
gần quán 40 độ Bắc hoặc công trường xây dựng và Williams đã bắt gặp?”
Anh ta gõ màn hình máy tính. “Và nhìn này.” Trong dấu vết thu thập được
gần một dấu chân ở cửa dỡ hàng của trung tâm mua sắm có một lượng nhỏ
dầu máy.
Thành phần thứ hai trong một quả bom phân bón.
Sachs thở dài. Gã nghi phạm này có liên quan đến cả khủng bố sao? Tuy
vụ giết người diễn ra ở một công trường xây dựng, những chất hóa học này
sẽ không được dùng cho các vụ tháo dỡ thương mại. “Tiếp đi.”
“Có thêm phenol. Như chúng ta đã thấy ở hiện trường đầu tiên.”