hơn là lâm phải số phận đó. Người ta cảm thấy trước rằng sự việc xảy ra sẽ
có ảnh hưởng không tốt đối với tôi và cho rằng cần phải ngăn ngừa điều đó.
Thế là người ta kể với tôi không biết bao nhiêu là câu chuyện lố bịch trái
ngược nhau về cô tu sĩ: nào là khi mới loạn óc, cô đã bị một phen khiếp sợ
trong một thời kỳ khủng hoảng; nào là cô đã hoảng hốt, trông thấy những
huyễn tượng, nào là cô tưởng mình giao du với các thiên thần, nào là cô đã
đọc những sách hại nên tâm trí bị hư hỏng; nào là cô đã nghe những kẻ
sáng lập ra một thứ đạo đức quá ư nghiêm ngặt, làm cho cô khiếp sợ những
phán xét của Chúa đến nỗi trí óc đã sẵn lung lay của cô đâm ra hoàn toàn
rối loạn; nào là cô chỉ còn thấy có ma quỷ, địa ngục và những vực thẳm
hừng hực lửa; nào là họ lấy làm khổ sở, vì từ trước đến nay chưa hề nghe
nói trong nhà tu này có ai như vậy bao giờ; những chuyện như thế thật
không sao kể xiết… Những cái trò ấy không có tác dụng gì đối với tôi.
Hình ảnh của nữ tu điên ấy cứ lởn vởn trong óc tôi và tôi thề đi thề lại với
mình rằng quyết không phát nguyện.
Và đây đã đến lúc xem thử tôi có giữ nổi điều đã tự hứa với mình không.
Một buổi sáng, sau khi làm lễ, tôi thấy bà nhất đến chỗ tôi. Bà cầm một bức
thư. Nét mặt bà buồn rầu, ủ rũ; tay bà buông thõng, dường như bàn tay
không còn đủ sức để nâng bức thư lên; bà nhìn tôi dường như nước mát
lưng tròng, bà lặng im, tôi cũng lặng im; bà chờ tôi nói trước. Tôi cũng
muốn nói nhưng kịp ngừng lại. Bà hỏi thăm sức khỏa của tôi thế nào, buổi
làm lễ hôm nay có kéo dài quá không; phải chăng tôi húng hắng do; có lẽ
tôi hơi khó thở chăng? Tôi chỉ trả lời: “Thưa mẹ, không”. Bà vẫn cầm bức
thư trong bàn tay bỏ thõng. Đang hỏi tôi, bà đặt bức thư lên đầu gối, bàn
tay của bà che lấp một phần bức thư. Cuối cùng, sau khi đã hỏi quanh về
cha tôi, về mẹ tôi và thấy rằng không không đả động đến mảnh giấy kia, bà
bèn nói: “Đây là một bức thư…”
Nghe nói bức thư, tôi cảm thấy trong lòng xáo động. Môi run run, tôi hỏi
bà, giọng đứt quãng:
- Có phải thư của mẹ con không?