Nỗi sợ hãi dâng lên trong ngực Olanna. Nàng chạy theo người đàn bà
ấy. “Làm ơn”, nàng nói.
“Chuyện gì thế?”, người đàn bà hỏi. Ông sếp đứng cạnh đó quay nhìn
Olanna chòng chọc.
“Con tôi bị ốm…”, Olanna nói.
Người đàn bà ngắt lời nàng. “Sang hàng bên kia xin sữa.”
“Không, không, nó không ăn gì hết, nó chỉ ăn bột trứng thôi.” Olanna
nắm tay người đàn bà. “Biko, làm ơn, tôi rất cần bột trứng.”
Người đàn bà vùng tay ra khỏi Olanna và vội vàng bước vào bên trong
tòa nhà, đỏng sập cửa lại. Olanna đứng đó. Ông sếp vẫn còn nhìn Olanna
chằm chặp, tiếp tục quạt mát cho mình bằng một xấp giấy và nói,”Ê hê! Tôi
biết cô”.
Cái đầu hói và bộ mặt đầy râu của ông không có vẻ gì quen thuộc cả.
Olanna quay người bước đi bởi vì nàng biết chắc ông ta chỉ là một trong
những người luôn tuyên bố biết nàng trước khi có cơ hội tán tỉnh, ve vãn
nàng.
“Tôi đã từng gặp cô”, ông ta nói. Ông ta tiến đến gần hơn, bây giờ mỉm
cười nhưng không có vẻ ve vãn như nàng dự đoán mà trông rất chân thành,
hớn hở. “Mấy năm trước ở sân bay Enugu, khi chúng tôi đi đón em tôi du
học ở nước ngoài về, cô đã nói chuyện với mẹ tôi. I kasiri ya obi. Cô giúp bà
cụ yên tâm khi máy bay đáp xuống mà không dừng ngay lập tức.”
Sự kiện ở sân bay hôm ấy lờ mờ hiện ra trong trí nhớ của Olanna. Chắc
cũng phải đến bảy năm rồi. Nàng nhớ giọng nói nhà quê đặc sệt và cái vui
mừng đầy âu lo của ông ta; lúc ấyông có vẻ già hơn bây giờ.
“Thì ra là ông.” Nàng nói. “Nhưng làm sao ông nhận ra tôi?”
“Ai mà có thể quên một gương mặt như cô chứ? Mẹ tôi vẫn kể về một
cô gái rất đẹp nắm tay bà. Tất cả mọi người trong gia đình đều biết. Hễ có
người nhắc lại chuyện em tôi trở về, bà lại kể.”
“Thế còn em ông thì sao?”