phố nơi Kainene đang sống sắp thất thủ. Một khi anh ta nói là Port Harcourt
không sao thì đúng là nó không sao thật.
Richard nhìn hình ảnh mình lờ mờ trên cửa kính. Nước da sạm nắng,
mái tóc lơ thơ, lởm chởm, bù xù, chàng nghĩ đến câu thơ của Rimbaud: Tôi
là người nào đó.
Kainene cười ngất khi Richard kể cho nàng nghe về củ cải đỏ của
Harrison. Rồi nàng chạm nhẹ cánh tay chàng và nói, “Đừng lo, nếu ông ta
bỏ bản thảo vào trong hộp, sẽ không sợ bị mối ăn”. Nàng cởi bộ quần áo đi
làm và nằm duỗi dài nhàn nhã; chàng ngắm nhìn nét thon thả trên đường
cong cong của lưng nàng. Ham muốn dâng đầy nhưng chàng sẽ chờ đến tối,
sau khi ăn tối xong, sau khi khách khứa đã ra về và sau khi Ikejide đã đi
ngủ. Hai người sẽ ra ngoài hàng hiên và chàng sẽ đẩy bàn sang một bên rồi
trải tấm thảm mềm và nằm ngửa ra. Khi nàng leo lên người chàng, chàng sẽ
giữ hông nàng rồi nhìn đắm đuối lên vòm trời đêm; nhờ những giây phút đó,
chàng mới hiểu thế nào là hạnh phúc. Nó là nghi thức mới của hai người bắt
đầu từ khi có chiến tranh và đó là lý do duy nhất mà chàng cảm ơn chiến
tranh.
“Hôm nay Colin Williamson ghé văn phòng của em.” Kainene nói.
“Anh không biết là ông ta đã về”, Richard nói. Gương mặt cháy nắng
của Colin trở về trong trí nhớ của chàng, bộ răng xỉn lúc ông ta kể về việc tại
sao ông ta bỏ Đài BBC – đơn giản vì chủ bút của ông ta ủng hộ người
Nigeria.
“Ông ta mang đến một lá thư của mẹ em”, Kainene nói.
“Của mẹ em?”
“Mẹ đọc bài của ông ta trong tờ Người Quan Sát rồi liên lạc với ông ta,
nhờ là nếu ông có về Biafra, xin chuyển giúp một lá thư cho cô con gái ở
Port Harcourt. Mẹ rất ngạc nhiên khi nghe ông ta nói là quen chúng ta.”