năng ủ kín trong đó, tin chắc rằng sau này mình cũng sẽ sử dụng dao nĩa tài
tình như ông nội.
Một câu hỏi khác là, liệu có bao giờ nó học được cách giấu cằm vào trong
cái nơ giống như ông nội không, để cái cằm lấp đầy chỗ mở ra của chiếc cổ
áo hình thù kỳ dị, với hai ve nhọn nhô lên cọ vào hai bên má. Vì muốn làm
được như vậy thì người ta cũng phải già như ông nó, mà ngày nay ngoài ông
nó và lão Fiete ra chẳng bói được người nào đeo nơ cùng cổ áo như thế.
Thật đáng tiếc, vì cậu bé Hans Castorp đặc biệt thích cái cách người ông tựa
cằm vào chiếc nơ thắt cao trắng như tuyết; khi đã thành người lớn mỗi khi
nhớ lại cậu vẫn thấy thích: đó là một cử chỉ được Hans đánh giá cao từ trong
tiềm thức.
Khi họ đã ăn xong và xếp tấm khăn ăn lại lồng vào chiếc vòng bằng bạc,
một công việc không phải là dễ đối với cậu bé Hans Castorp vì chiếc khăn
ăn rộng như một tấm khăn trải bàn nhỏ, lão Fiete kéo chiếc ghế của ông
thượng nghị sĩ để ông đứng dậy bước lệt xệt sang ‘văn phòng’ phía bên kia
lấy xì gà ra hút; thỉnh thoảng ông cho cả thằng cháu nội đi theo.
Cái ‘văn phòng’ này được hình thành nhờ người ta thiết kế gian phòng ăn
rộng chiếm hết một mặt bên ngôi nhà với ba ô cửa sổ, vì vậy, không giống
như những ngôi nhà khác loại này vẫn thường có ba phòng khách, họ chỉ có
hai phòng khách trong đó một cái nằm vuông góc với phòng ăn chỉ có một
cửa sổ trông ra phố và thiếu cân đối vì chiều dài quá áp đảo so với chiều
ngang. Do đó người ta đã ngăn khoảng một phần tư căn phòng này làm
thành cái ‘văn phòng’, một gian hẹp lấy ánh sáng từ trên mái nên lúc nào
cũng mờ mờ tối và chỉ được trang bị vài đồ vật: một cái kệ nhiều tầng trên
xếp tủ xì gà của ông thượng nghị sĩ, một cái bàn đánh bài trong ngăn kéo
chứa rất nhiều thứ hấp dẫn: bộ bài, chíp để đặt cửa, những tấm cạc nhỏ để
đánh dấu có răng cưa mở ra đóng vào được, một cái bảng đá với cán để gài
phấn vào viết, đầu xì gà bằng giấy và vài thứ linh tinh khác; cuối cùng là
một cái tủ kính kiểu Rococo bằng gỗ tử uy kê trong góc, mặt trong cánh cửa
căng rèm lụa vàng nhạt.
“Ông ơi”, cậu bé Hans Castorp thường đứng trong văn phòng, kiễng chân
ghé sát lên tai người ông xin, “ông chỉ cho cháu xem cái thau rửa tội đi!”