200,8 vào năm 1970. Nhập khẩu cũng tăng với chỉ số biến động từ 56,6 vào
năm 1960 rồi leo đến 100 vào năm 1965 và 224 vào năm 1970. Đặc biệt,
lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa chất đã đạt những kỷ lục với chỉ số từ 29 vào
năm 1960, lên đến 100 vào năm 1965 và 280 vào năm 1970. Lĩnh vực sản
xuất máy móc (bao gồm xe hơi) cũng có những chỉ số tương ứng là 26, 100
và 263. Hàng xuất khẩu của Nhật Bản đã thâm nhập vào tất cả các thị
trường. Năm 1970, Hoa Kỳ chiếm khoảng hơn 30% thị trường xuất khẩu
của Nhật Bản, Tây Âu: 15% và Đông Nam Á: 15%.
Năm 1960, GNP của Nhật Bản chỉ mới chiếm 2,9% GNP toàn thế giới
với 43 tỉ đô la (215 tỉ franc). Con số này đã tăng lên 6,2% vào năm 1970
với 200 tỷ đô la, 8,6% vào năm 1973 với 411 tỷ đô la, 8,4% vào năm 1976
với 574 tỷ đô la (2870 tỷ franc). Cuộc khủng hoảng dầu hỏa đã tác động đến
nước Nhật. Năm 1978 con số này lại tăng lên đến 9,5% với 836 tỷ đô la
(4180 tỷ franc). Trong vòng 18 năm, Nhật Bản đã nhân GNP của mình lên
hơn 19 lần ! Giải thích kết quả này như thế nào ?
Những công thức của một sự thành công vô tiền khoáng hậu
Trước hết, đó là nhờ lợi tức và năng suất tăng một cách ổn định trong
công nghiệp. Xét theo GNP thực tế thì năng suất của Nhật Bản đã tăng
trung bình 9% trong thời kỳ 1964-1973. Trong lúc đó, con số này ở Hoa Kỳ
là 1,9%, Anh: 3,2%, CHLB Đức: 4,7%. Từ năm 1976 đến năm 1979, sự gia
tăng này có hạ thấp nhưng vẫn giữ ổn định mức 4% trong khi ở các nước
công nghiệp khác, con số này tụt xuống còn rất thấp.
Diễn biến của năng suất so với GNP (Tỷ lệ: GNP thực tế/số lao
động)
1964-1973
1976-1979
Nhật Bản
9,0
3,9
Hoa Kỳ
1,9
0,7
CHLB Đức
4,7
3,0
Anh
3,2
1,4
Nguồn: OCDE
Chính phủ và các ngành công nghiệp hàng đầu của Nhật Bản đã đầu tư
để hiện đại hóa trang thiết bị với một nhịp độ chưa từng có trên thế giới.
Trong khi các ông chủ Hoa Kỳ tự cho phép mình những mức lương kếch xù
và các cổ đông bỏ túi những phần chia hậu hĩ, thì ở Nhật Bản lợi nhuận bao
giờ cũng được đưa vào tái đầu tư. Hơn nữa, trong khi dân Mỹ vui vẻ với