Âu, Hà Lan được xếp số một với 109,4 điểm; nước Pháp… cầm đèn đỏ với 96,1 điểm.
Mặt khác, châu Âu và Mỹ chỉ có 2% dân số có hệ số thông minh cao hơn 130 điểm.
Còn Nhật có tới 10% dân số.
[12]
Sức khỏe, lao động, nghỉ ngơi
Dù cho người Nhật có làm việc dữ dằn, hiếm khi nghỉ ngơi, và sống trong những
“chuồng thỏ” bé xíu, thì Nhật Bản vẫn là nước mà người dân có tuổi thọ dài nhất trong
số 33 nước phát triển nhất thế giới. Người Nhật (tính chung nam và nữ) có tuổi thọ
trung bình là 79,1 năm. Hãy so với tuổi thọ trung bình của người Hunggari (69,7 năm),
Liên Xô (69,8), Mỹ (75), Anh (75,3), Ý (75,5) và Pháp (75,9)
[13]
tuổi thọ trung bình phụ nữ là 81,77 năm và đàn ông là 75,91 năm. Xu hướng kéo dài
tuổi thọ sẽ vẫn tiếp tục trong những năm tới. Theo Bộ Y tế Nhật Bản, 66% trẻ em gái
Nhật sinh năm 1989 sẽ sống đến 80 tuổi, so với số bé gái sinh 80 năm trước thì chỉ có
34% sống đến tuổi 80
[14]
. Kỷ lục này tất nhiên có mặt trái của nó đối với nền kinh tế
Nhật: vào năm 2025, Nhật Bản sẽ là nước có dân số già nhất thế giới. Cứ bốn người
Nhật thì sẽ có một người (26,55%) quá 65 tuổi, so với hiện nay là 12%. Tỷ lệ nói trên
sẽ vượt qua tỷ lệ của Thụy Sĩ lúc ấy là 25,9%
[15]
Về thời gian lao động, nước Nhật – thật sự không có gì đáng ngạc nhiên – bỏ xa các
nước khác với 2.165 giờ lao động bình quân năm 1988, trước người Mỹ (1.847 giờ) và
Thụy Sĩ (1.800 giờ). Trong số các nước châu Âu, CHLB Đức là nơi mà người ta làm
việc ít giờ nhất (1.560 giờ hàng năm). Nhật Bản cũng đứng trước Bỉ (1.596 giờ), Hà
Lan (1.599 giờ), Pháp (1.626 giờ), Áo (1.631 giờ) và Ý (1.646 giờ)
[16]
chính thức của chính phủ Nhật là mỗi người Nhật làm việc 1.800 giờ/năm vào năm
2.000.
Về mặt nghỉ ngơi, tình hình cũng không khá hơn. Tâm lý người dân thay đổi chậm,
nếu như có thể khẳng định nó có thay đổi. Năm 1990, người làm công Nhật Bản chỉ
nghỉ liên tục có 7,1 ngày. Mùa hè năm 1989, số ngày nghỉ trung bình là 6,5 ngày. Về lý
thuyết, người Nhật có quyền nghỉ ba tuần được trả lương hàng năm. So với người Mỹ
và người Tây Đức, người Nhật nghỉ ít từ 24 đến 45 ngày hàng năm. Nhưng thường thì
họ cũng chẳng nghỉ vì sợ bị đánh giá thấp trong xí nghiệp hoặc vì thực sự cảm thấy áy
náy đối với những người sẽ bị buộc phải làm thay công việc của họ. Mặc khác, các
công ty lớn đã cho phép nhân viên được nghỉ một hoặc hai ngày thứ bảy hàng tháng.
Nhân viên vui mừng. Nhưng trong các xí nghiệp nhỏ hoặc trong khu vực dịch vụ
(thương nghiệp và ăn uống), thường thì nghỉ hàng tuần chỉ có một ngày. Năm 1988,
chỉ có 7,4% các xí nghiệp Nhật Bản áp dụng tuần làm việc 5 ngày. Chỉ có 19,7%
người Nhật nghỉ hàng tuần 2 ngày, so với 76,1% người Canada (tỷ lệ cao nhất trong
khối các nước OCDE) và 45,5% người Úc (tỷ lệ thấp nhất, sau nước Nhật).
Thực tế, xét lâu dài thì thời gian trung bình làm việc ở Nhật đã thường xuyên giảm
xuống trong khoảng thời gian từ 1949 đến 1974, năm xảy ra cuộc khủng hoảng dầu
hỏa đầu tiên. Từ đó đến nay, thời gian trung bình làm việc đã không giảm. Chính chính
phủ Nhật thừa nhận rằng trong thực tế nó lại còn tăng chút ít ! Thời gian làm việc bình
thường thì ít hơn, nhưng ngược lại, các chủ nhân lại kêu gọi nhân công làm giờ phụ
trội nhiều hơn trước kia. Hậu quả của thói quen làm việc này là: một chứng bệnh mới
xuất hiện ở Nhật, bệnh Karoshi, gây nên cái chết đột ngột do tim và não ngừng làm