NƯỚC NHẬT MUA CẢ THẾ GIỚI - Trang 74

mức và đồng đô la lên giá quá cao, ngân hàng bán đô la ra thị trường hối đoái, làm hạ
tỉ giá. Ngày 1/2/1991, dự trữ của Nhật về vàng, ngoại tệ và quyền rút tiền đặc biệt từ
Quỹ tiền tệ quốc tế (FMI) là 77,5 tỷ đô la. Tháng 4/1989, Nhật đã đạt mức dự trữ lịch
sử với 100,36 tỷ đô la (…)

Về tài chính và bất động sản trên thị trường nội địa, tích sản của người Nhật (gộp

chung cả các công ty và các nhân) đã tăng 12% vào năm 1988, đạt đến 5.993.000 tỷ
yên (48.800 tỷ đô la). Trong tổng số đó, tích sản bằng cổ phiếu, trái phiếu và các công

cụ tài chính khác lên đến 3.226.000 tỷ yên (25.200 tỷ đô la), tăng 15,3%

[23]

. Tuy

nhiên, phải nhấn mạnh rằng vào thời kỳ ấy, do giá cổ phiếu tăng đến chóng mặt, thị
trường hối đoái Tokyo đã trở thành thị trường số một thế giới về tích lũy vốn. Từ mùa
đông 1989-1990, “quả bong bóng đầu cơ”, như người ta thường gọi ở Tokyo, đã nổ
tung: chỉ trong năm 1990, giá các chứng khoán đã giảm mạnh gần 40% và thị trường
Kabuto-Cho đã trở lại vị trí thứ hai sau Wall Street. Tích sản của Nhật đã giảm với tỉ lệ
tương đương.

Khi các tài sản trở thành khổng lồ

Hãy nói thêm một chút về tài sản, với những tài sản khổng lồ đến mức khó tin,

huyền hoặc của 10 ngân hàng lớn nhất của Nhật. Có cần phải nhắc lại không ? Những
ngân hàng Nhật này cũng là những ngân hàng lớn nhất thế giới, vượt xa các ngân hàng
khác. Toàn bộ tích sản của 10 ngân hàng ấy, nghĩa là đất đai, nhà cửa, chứng phiểu và
tích lũy lên tới con số khổng lồ 3.281 tỷ đô la. Trong tài khóa kết thúc vào ngày
31/3/1990, tăng 20% so với năm trước (tính theo đồng yên). Số tiền đó đủ để xóa sạch
nợ nần của các nước thế giới thứ ba ! Dù cho có xảy ra điều đó đi nữa, thì các ngân
hàng Nhật Bản vẫn còn khoản dư thoải mái, vì nợ của thế giới thứ ba tính đến cuối
năm 1989 là 1.322 tỷ đô la.

Ngân hàng số một của Nhật là Dai-Ichi Kangyo. Tích sản của nó cho đến ngày

31/3/1990 là 421 tỷ đô la (66.591 tỷ yên). Những ngân hàng khác theo thứ tự nhỏ dần
là: Mitsui-Taiyo-Kobe (401 tỷ đô la), Sumitomo (397 tỷ đô la), Fuji ( 392 tỷ đô la),
Mitsubishi (384 tỷ đô la), Sanwa (373 tỷ đô la), Industrial Bank of Japan (276 tỷ đô
la), Tokai (244 tỷ đô la), Ngân hàng Tokyo (201 tỷ đô la) và cuối cùng là ngân hàng tín
dụng dài hạn Nhật Bản (192 tỷ đô la). Do sự chênh lệch không mấy quan trọng giữa
các khoản vay và cho vay vì lãi xuất ở Nhật tăng và cũng vì giá chứng khoán sụt giảm
ở thị trường chứng khoán Tokyo, các ngân hàng kể trên đã loan báo khoản lãi dự kiến
cho tài khóa 1990-1991 giảm. Chẳng hạn, Dai-Ichi Kangyo ghi nhận tiền lãi giảm
26,1% với 115 tỷ yên; Mitsui giảm 22,3% với 90 tỷ yên; Fuji giảm 32% với 100 tỷ yên
và Sanwa giảm 12,2% với 130 tỷ yên.

Nhưng, dù cho có khủng hoảng vùng Vịnh và suy yếu thị trường chứng khoán hay

không, các ngân hàng Nhật vẫn không ngừng tăng cường sức mạnh, đến mức mà
người ta có thể tự hỏi rằng sắp tới, phải chăng những người đi vay sẽ dần dần chỉ còn
một nguồn duy nhất để chọn lựa. Năm 1989, lần đầu tiên Nhật đã qua mặt Anh trên thị
trường cho vay thế giới. Các ngân hàng Nhật đã cho vay 20,6% trong tổng số tín dụng,
so với 20,5% của các ngân hàng Anh và 10% của các ngân hàng Mỹ. Mọi thứ độc
quyền đều nguy hiểm. Tình hình cũng sẽ như vậy nếu các sợi dây tài chính chủ yếu
của thế giới rơi vào tay Nhật Bản. Trở thành người cho vay số 1 của thế giới, Nhật Bản
có được một sức mạnh chính trị đáng ngại, tuy chưa rõ ràng. Dù sao, bằng cách cho
vay hoặc không cho vay, Nhật Bản có thể làm một nước khác sống sót hoặc chết chìm.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.