Đừng quên rằng những tài sản mà chúng ta đang nói tới không thuộc về những
người Nhật bình thường. Lại càng không thuộc về nhân viên của các đại công ty,
những “salary-men” khiêm tốn. Còn về tiền lương, ngay cả chủ nhân của những xí
nghiệp làm ăn giỏi nhất và giàu nhất cũng không được trả lương quá cao, khác với ở
Mỹ. Mặc dù vậy, mức sống của người Nhật đã nâng cao nhiều nhờ thành tựu kinh tế
của nước họ. Chẳng hạn, từ 1947 đến 1984, tiền lương đã tăng 156 lần tính theo giá trị
tuyệt đối và 10 lần theo giá trị thực tế (có tính đến lạm phát). Tiền thưởng cuối năm do
các xí nghiệp lớn và chính quyền trả, vượt xa lương tháng 13 của chúng ta. Với khu
vực tư nhân, tiền thưởng trung bình đã lên tới kỷ lục 680.000 yên (24.480 franc) cho
mỗi nhân viên (mùa đông 1989-1990). Những gia đình Nhật không có ít nhất là một
máy giặt, một tủ lạnh, một TV màu và điện thoại (ở thành phố) từ nay chỉ còn là ngoại
lệ.
Ở Nhật, vẫn có những cách biệt xã hội nhưng rõ ràng là ít đập vào mắt hơn ở
phương Tây. Đặc quyền của người giàu là một thực tế. Sự cách biệt về của cải giữa
người Nhật bình thường và gia đình của các nhà công nghiệp lớn là một sự cách biệt
khổng lồ. Nhưng những đặc quyền ấy hiếm khi quá đáng và nhất là hầu như không bao
giờ được phô trương. Những nhà tỷ phú lớn giải trí trong những câu lạc bộ kín đáo,
che đậy khỏi cặp mắt hạng bình dân. Ở Nhật có một giới quý tộc tài chính sống đế
vương mà hầu như người ta không biết gì và cũng rất ít người có thể nghi ngờ. Nhưng
những gia đình trung bình quả thực không còn gì để than phiền về số phận và hầu như
chín trên mười người Nhật đã là những “quý ông”. Một cuộc thăm dò mới đây cho
thấy 84,5% người Nhật tự cho mình thuộc tầng lớp trung lưu. Chỉ có 8,8% cho rằng
mình là thành viên đầy đủ của tầng lớp kém may mắn hơn và 0,5% cho rằng mình
thuộc tầng lớp bị thiệt thòi nhất
[25]
. Không nói tới những nước thuộc thế giới thứ ba,
sự thuần nhất xã hội của nước Nhật trái ngược với hố phân chia người giàu và người
nghèo ở các nước công nghiệp khác, chẳng hạn ở Mỹ và Anh, nơi mà cái hố phân chia
ấy ngày càng lớn. Chẳng hạn ở Mỹ, thu nhập năm 1990 của 2,5 triệu người giàu hầu
như bằng thu nhập của cả 100 triệu người ở những nấc thang cuối cùng
[26]
. Ở Anh,
chính sách của Margaret Thatcher đã có lợi cho người giàu hơn là cho người nghèo,
bởi vì tỷ lệ những gia đình có thu nhập thấp hơn mức thu nhập bình quân quốc gia đã
tăng gần gấp đôi, từ 8% lên 14% trong khoảng thời gian từ 1981 đến 1987
[27]
Theo các thăm dò chính thức ở Nhật, 63,1% người Nhật được hỏi đã tuyên bố
“hoàn toàn hài lòng” hoặc “không hoàn toàn nhưng khá hài lòng” về cuộc sống hiện
tại. Tuy vậy, cũng còn 35,9% khẳng định “bất mãn” hoặc “cực kỳ bất mãn” về cuộc
sống của họ. Để cho công bằng, cần nhắc lại rằng tỷ lệ những người “hài lòng” đã
không hề tiến triển từ sau chiến tranh đến nay. Tỷ lệ ấy là 60% vào năm 1958, rồi sụt
xuống 50,4% vào lúc đen tối nhất của cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1975, rồi lại lên
đến đỉnh cao 70,6% vào năm 1985. Cần thêm rằng, hiện tại 54,6% người Nhật thú
nhận rằng họ có điều “lo lắng” và thường “lo âu”trong cuộc sống thường ngày, trong
khi 43,3% khẳng định họ không gặp phải điều ấy.
Những người giàu mới
Với một số người, tiền bạc không làm nên hạnh phúc. Với người khác thì có. Ở
Nhật, với cả hai loại người, việc tăng mạnh thu nhập đã tạo nên một cơn sốt tiêu thụ
chưa từng thấy. Xu hương này trái ngược sâu sắc với những năm tháng kiêng khem và
lao động cực nhọc trong thời kỳ tái thiết. Với một bộ phận không nhỏ dân chúng, việc