Từ lúc ấy, người thân thích đến thăm thưa dần. Rồi sau hết, không ai
dám lại gần đấy nữa. Những khách đi đường, vì vô ý hoặc bất đắc dĩ phải
qua, đều che nón, ngậm miệng, và đến chỗ xa, rùng mình một cái mới nhổ
toèn toẹt.
Ông Cứu ở nhà để chờ quan về khám, cũng chẳng kém nóng ruột. Ông
như chết một nửa người mà vẫn phải tiếp khách đến hỏi thăm mỗi lúc một
đông. Ông chỉ muốn được yên, để nằm nhoài ra mà kêu gào, vật vã cho hả
nỗi phụ tử tình thâm. Ông lại lo lắng, không hiểu vợ ông ngồi ngoài bờ
đầm, có ai canh giữ cẩn thận, hay lại chẳng nén nổi lòng thương, mà liều
mình quá, thì ông thêm một nỗi ân hận nữa suốt đời.
Họ hàng chạy đến mỗi người giúp một việc. Người bày ở dưới nhà
ngang một bàn thờ cỏn con, lấp láy có đôi nến trắng. Người lược may đồ
khâm liệm và xé khăn cho lũ em.
Rồi đến khi được biết rằng là ngày chủ nhật, cả buổi hầu sáng, quan
không ra công đường, vì đêm trước ngài nhảy đầm trên tỉnh, ba bốn giờ
sáng mới về, và đến chiều, cổng huyện đóng, vì là ngày nghỉ; thì ở nhà ông
Cứu trợn mắt, kêu rú lên một tiếng, và ở cạnh lũy tre, bà Cứu ngã vật
xuống đất, ngất đi đến năm phút đồng hồ.
Cả làng phải chờ.
Họ hàng sắp sửa việc ma chay xong, ai nấy về nhà, để chờ sáng hôm
sau lại đến làm giúp. Người không thân thích lại bắt đầu công việc như cũ,
chờ lúc kèn trống nổi lên thì đưa anh Xích ra đồng. Ông Cứu cho người
vực bà Cứu về. Hai vợ chồng già nằm chết gí ở hai giường, chờ cuộc khám
xét của quan phụ mẫu. Tử thi chờ chôn, mỗi lúc một trương to, dập dềnh
cạnh cái quan tài ngoác miệng chờ việc. Cảnh vật im ả như cũng chờ để
nghe ngóng tin. Ánh nắng cứ lẳng lặng rọi xuống. Cây cối mệt nhọc, càng
gục lả.