Sau câu đó, ông ta không hề phát ra một tiếng nào nữa. Ông ta chỉ ngồi
nấc lên và ợ hơi cho đến tận lúc chai Pernod cuối cùng đã cạn sạch. Rồi
cầm mũ lên, đeo súng và đi ủng:
– Ông lẽ ra nên ở lại trong nước thì tốt hơn, Olivier ạ! Ông sẽ chẳng bao
giờ hiểu gì về châu Phi cả, và giả như có điều đó xảy ra thật thì châu Phi,
về phía nó, nó chẳng bao giờ hiểu ông đâu! Vĩnh biệt, thưa ngài Olivier,
vĩnh biệt lần cuối cùng!
Rồi ông ta mất hút trong bóng đêm đúng vào lúc tiếng rền vang của sấm
và của những con linh cẩu bắt đầu khiến vùng rừng hoang trảng vắng rung
lên.
Ngày 31 tháng Tám, vào tám giờ tối, sau một cơn bão dữ dội, thì ông cập
bến Gorée. Các dịch vụ vệ sinh sức khỏe ngay lập tức tống ông vào phòng
cách ly năm ngày liền.
Nhưng khi ông vẫn còn chưa giở hết hành lý rương hòm thì một người
đến gõ cửa phòng ông. Ông mở cửa và thấy trước mặt mình một người đàn
ông trẻ, mảnh mai và râu tóc nhẵn nhụi, dáng vẻ thể thao và quyến rũ, mặc
dù làn da anh ta nhợt nhạt và cơ thể gầy guộc.
– Sao, ông vẫn chưa có chúng à, các vệt rạch trên mặt ấy, hả ông ngoại?
Họ chưa cho ông một vương quốc ư? Sao cơ, ông không nhận ra tôi hay
sao, hả ông ngoại?
– Souvignet! Ô, ngạc nhiên quá đấy! Nhưng cậu làm gì ở đây, hả chàng
trai quả cảm của tôi?
– Con bệnh cùng danh tước như ông thôi, ông ngoại ạ! Chỉ có điều, ông
đang trong thời kỳ quan sát còn tôi thì đã vướng rồi: bệnh sán xơ mít đấy,
rồi sốt vàng và còn rất nhiều các bệnh khác mà người ta vẫn còn chưa tìm
ra tên. Vào lúc mà tôi còn trụ được trên đôi chân mình thì tôi chẳng sợ cái
đếch gì cả. Tôi tự nhủ mình cảm thấy còn khỏe hơn cả chúng nữa kia.
Anh chỉ tay về phía dãy tranh mà họ có thể nhìn thoáng thấy qua các khe
cửa chớp. Ở đó có ba nghĩa địa nhỏ tách biệt, ngăn cách bằng những bức
tường thấp, với những nấm mộ màu trắng và cây thập tự gỗ, đứng được là