mulefa vui vẻ chấp thuận, nhưng họ quá bận rộn để có thể quan tâm tới việc
đó. Nhờ sự giúp đỡ của Atal, bà đã rút ra được một ít chất nhựa cây dinh
dính, sau đó là quá trình dài đằng đẵng bao gồm đun, hòa tan, rồi lại đun cho
tới khi chất véc-ni sẵn sàng được sử dụng.
Người mulefa dùng những miếng làm bằng sợi bông từ một loại cây
khác để thấm vào đó, rồi theo lời chỉ dẫn của một nghệ nhân, bà hì hục sơn
hết lớp này đến lớp khác lên tấm gương của mình, dù rằng chẳng thấy khác
biệt gì sau mỗi lần vì lớp sơn quá mỏng, nhưng bà vẫn cứ để chúng được lưu
hóa một cách thong thả và rồi dần dần nhận ra rằng độ dày đang được tăng
lên.
Bà sơn lên đó hơn bốn mươi lớp - bà không đếm nổi nữa - nhưng đến
khi hết nhẵn toàn bộ sơn, bề mặt đã có độ dày ít nhất là năm milimét.
Sau lớp sơn cuối cùng thì đến việc đánh bóng: nguyên một ngày nhẹ
nhàng chà xát bề mặt bằng những chuyển động vòng tròn trơn tru, cho tới
khi đôi tay bà đau nhức, đầu nhói lên và bà không thể chống chịu với công
việc chân tay này trên chút nào nữa.
Rồi bà ngủ thiếp đi.
Buổi sáng hôm sau, cả nhóm đến làm việc tại một bãi cây nhỏ trồng thứ
mà họ gọi là gỗ nút, kiểm tra xem các chồi non có phát triển theo như cách
chúng được trồng hay không, quấn chặt những khoảng đan xen để các cành
đã phát triển có thể được định hình hoàn chỉnh. Họ đánh giá cao sự giúp đỡ
của Mary trong công việc này, vì bà có thể ép mình qua những khoảng hở
hẹp mà người mulefa không thể qua, và dùng đôi tay khéo léo để thao tác
trong những khoảng không chật chội hơn.
Chỉ sau khi công việc đó được hoàn thành và mọi người trở về khu
định cư, Mary mới có thể bắt đầu thí nghiệm - hay nói chính xác hơn là chơi
đùa, vì bà vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng nào về việc mình đang làm.
Ban đầu bà thử sử dụng tấm bảng sơn mài đơn thuần như một tấm
gương, nhưng do mặt sau không được dát bạc nên tất cả những gì bà có thể
thấy là một hình phản chiếu kép lờ mờ trên lớp gỗ.