gật gù, thế là câu chuyện tự thổi bùng lên thành lũ trẻ và những người bạn
đến từ Mặt Trăng của chúng phải tìm đường tới miền đất của người chết để
tìm hiểu bí mật về nơi gia tài của gia đình được chôn giấu từ cha mẹ của cô
bé.
“Nếu chúng cháu biết về tử thần của mình, tại đất nước của mình,” cô
nói, “giống như các vị ở đây, có lẽ mọi việc sẽ dễ dàng hơn; nhưng cháu
nghĩ chúng cháu thật sự rất may mắn mới tìm được đường đến đây, nhờ vậy
mới có được lời khuyên của các vị. Cảm ơn mọi người rất nhiều vì đã rất tử
tế lắng nghe cháu, và vì cho chúng cháu dùng bữa, thật sự rất ngon ạ.
“Nhưng các vị thấy đấy, điều cần thiết bây giờ, hoặc có lẽ là vào buổi
sáng, là chúng cháu cần phải tìm lối đi băng qua mặt nước nơi những người
chết đi qua, để xem xem liệu mình cũng có thể tới đó hay không. Có con
thuyền nào mà chúng cháu có thể kiểu như thuê được không?”
Trông họ có vẻ hồ nghi. Lũ trẻ với gương mặt tỏ rõ sự mệt mỏi, ngái
ngủ nhìn hết người lớn này đến người lớn khác, nhưng chẳng ai gợi ý được
ra nơi chúng có thể kiếm một con thuyền cả.
Đúng lúc đó vọng lại một giọng nói chưa từng cất lên. Từ sâu dưới
đống chăn mền trong góc nhà phát ra một giọng mũi khô khốc, vỡ vụn -
không phải giọng phụ nữ - không phải giọng người sống: Đó là giọng tử
thần của bà cụ.
“Cách duy nhất để vượt qua được hồ và tới vùng đất của người chết,”
hắn nói, hắn đang tựa lên cùi chỏ và trỏ một ngón tay xương xẩu vào Lyra,
“là đi cùng với tử thần của mình. Các vị phải gọi thần chết của mình đến. Ta
có nghe nói về những người như các vị, những kẻ xua không cho tử thần đến
gần. Các vị không thích họ, và vì phép lịch sự họ cũng tránh mặt đi. Nhưng
họ không ở xa đâu. Các vị cứ quay đầu thì các tử thần sẽ né ra sau. Các vị
nhìn thì họ sẽ trốn. Họ có thể trốn trong tách trà. Hay trong một giọt sương.
Hoặc trong hơi thở của gió. Không giống như tôi và cụ Magda đây,” hắn nói
rồi nhéo gò má tiều tụy của bà lão, bà liền gạt tay hắn đi. “Chúng tôi sống
cùng nhau trong tình thân ái và hữu nghị. Đó là câu trả lời, vậy đấy, đó là