đã thấy cô như thế, nhưng một khi cô đã rời xa khỏi nó, con linh thú sẽ
không biết phải hình dung ra cô thế nào. Vậy là cô bé lưỡng lự, nhưng hai
con chuồn chuồn đã bay lên, Will cũng đã bước ra, mặt tái mét, tay ôm lấy
ngực; nên cô cũng phải làm theo.
“Cảm ơn ông,” cô bé nói với người lái thuyền. “Khi quay về, nếu ông
thấy linh thú của tôi, hãy nói với cậu ấy rằng tôi yêu cậu ấy hơn tất thảy mọi
thứ tại vùng đất của người sống hay là người chết, và tôi thề sẽ trở lại với
cậu ấy, kể cả chưa từng có ai làm việc đó trước đây, tôi thề mình sẽ làm.”
“Được, ta sẽ nói với nó điều đó,” người lái thuyền già nua nói.
Hắn đẩy thuyền đi, những tiếng quạt chèo chầm chậm chìm dần vào
màn sương.
Hai người Gallivespia quay trở lại sau khi đã bay trước một đoạn rồi
đậu lên vai hai đứa trẻ giống như trước đó, công nương trên vai Lyra, hiệp sĩ
trên vai Will. Vậy là họ, những lữ khách, đứng bên rìa vùng đất của người
chết, chẳng có gì trước mặt ngoài sương mù, dù họ có thể nhìn thấy từ mảng
tối một bức tường khổng lồ dựng lên trước mặt.
Lyra rùng mình. Cô có cảm giác như da mình đã biến thành đăng-ten
nên không khí ẩm ướt và rét buốt có thể thổi ra thổi vào tận lồng ngực, lạnh
đến tê tái trên vết thương chưa lành nơi Pantalaimon đã từng ở. Vậy nhưng,
cô nghĩ, Roger hẳn cũng cảm thấy như vậy khi cậu lao mình xuống sườn
núi, cố gắng bấu víu vào những ngón tay tuyệt vọng của cô bé.
Họ đứng yên nghe ngóng. Âm thanh duy nhất là tiếng tong-tong-tong
không ngớt của nước nhỏ xuống từ lá cây rồi khi nhìn lên, họ cảm thấy vài
giọt nước lạnh toát đập vào má mình.
“Không thể ở đây được,” Lyra nói.
Họ rời khỏi bến tàu, đi sát bên nhau, rồi tiến về phía bức tường. Những
khối đá vĩ đại, xanh rì một màu bùn nhớt cổ xưa, đâm sâu vào màn sương
hơn họ có thể thấy. Giờ khi đã tới gần hơn, họ có thể nghe thấy tiếng kêu
khóc phía sau, dù cho không thể đoán được liệu đó có phải tiếng khóc của
con người hay không: Những tiếng rít chói tai đầy tang tóc và tiếng khóc