nghĩ rằng đó là nhiệm vụ mình cần phải hoàn thành. Kết quả là giờ đây đã
có một con đường dẫn ra khỏi thế giới của người chết.”
Phu nhân Coulter không nói nên lời. Bà phải quay đi và bước tới bên
cửa sổ để che dấu cảm xúc trên gương mặt mình. Cuối cùng bà nói:
“Vậy nó sẽ sống sót mà thoát ra chứ? Mà thôi, tôi biết ông không thể
tiên đoán được. Nó - nó thế nào - nó có…”
“Cô bé đang phải chịu khổ, đang đau đớn và sợ hãi. Nhưng cô bé có
thằng bé ở bên cạnh, rồi cả hai mật thám người Gallivespia nữa, họ vẫn đều
đang ở bên nhau.”
“Còn quả bom?”
“Quả bom đã không làm hại được cô bé.”
Phu nhân Coulter đột nhiên cảm thấy cạn kiệt sức lực. Bà không muốn
gì khác hơn là được nằm xuống và thiếp đi hàng tháng, hàng năm trời. Bên
ngoài, sợi dây kéo cờ quật chan chát trong gió, còn lũ quạ cứ kêu quàng
quạc trong lúc lượn vòng quanh thành luỹ.
“Cảm ơn ông,” bà quay lại với Chân Kế gia và nói. “Tôi rất biết ơn.
Xin ông, ông có thể báo cho tôi nếu phát hiện ra thêm bất cứ điều gì về con
bé, về nơi nó ở hoặc việc nó đang làm được không?”
Người đàn ông cúi chào rồi bước đi. Phu nhân Coulter tới nằm xuống
trên chiếc giường cắm trại, nhưng dù có cố gắng thế nào, bà vẫn không chợp
mắt được.
“Ông hiểu thế nào về cái đó, hả Quốc Vương?” Ngài Asriel hỏi.
Ông đang nhìn qua kính viễn vọng trên tháp canh vào một thứ gì đó
trên bầu trời phía tây. Nó có hình dạng của một ngọn núi lơ lửng trên không
trung, cách đường chân trời một khoảng bằng độ rộng một gan bàn tay, được
mây bao phủ. Nó ở cách đó rất xa; trên thực tế là xa đến mức nó không lớn
hơn móng tay cái trên một bàn tay duỗi thẳng. Nhưng nó ở đó chưa lâu, và
cứ lơ lửng một cách hoàn toàn bất động.