Dương, Teheran, San Francisco, Postdam - chấp nhận quyền tự do và bình
đẳng như những nguyên tắc cơ bản, và chính thúc thừa nhận quyền tự
quyết của các dân tộc. Điểm ba trong Tuyên bố Đại Tây Dương quy định
rằng Liên Hợp Quốc tôn trọng quyền lựa chọn hình thái Chính phủ của tất
cả các dân tộc và mong muốn chứng kiến những quyền về chủ quyền và tụ
trị đã bị tước đoạt bằng vũ lực được trả lại cho các dân tộc.
Bùi Diễm, người gia nhập Việt Minh sau Cách mạng tháng Tám, nhớ lại
rằng giữa tất cả sự hồ nghi và tình trạng bấp bênh bao quanh sự xuất hiện
của các lực lượng chiếm đóng, đối với người Việt Nam, "một nhóm người
nước ngoài luôn được ngưỡng mộ - chính là người Mỹ. Tình cảm đó được
xây dựng trên niềm hy vọng mong manh là bằng cách nào đó nước Mỹ có
thể cứu vãn tình hình". Một số nhân viên trong Chính phủ Mỹ cũng hy
vọng rằng một quan điểm chống thực dân của Mỹ sẽ tiếp nối dưới chính
quyền Truman. Nhưng sau khi Franklin Roosevelt mất vào tháng 4 và sau
khi cuộc chiến ở châu Âu và Thái Bình Dương kết thúc thắng lợi, thế giới
đã thay đổi. Tình trạng khẩn cấp thời chiến dẫn đến việc các phái đoàn OSS
cộng tác với các nhóm cộng sản trên khắp thế giới không còn tồn tại nữa;
sự khinh bỉ đối với người Pháp bại trận phải đặt sang một bên khi họ được
giải phóng và giành lại vai trò quốc tế nổi bật; và chủ nghĩa lý tưởng đối
với tương lai thường đến cùng nỗi khiếp sợ chiến tranh được thay thế bởi
tính thực tế thời bình.
Vào tháng 3, lần đầu tiên Charles de Gaulle đã "đe doạ" các nhà ngoại giao
của Roosevelt rằng Pháp có thể bị "đẩy vào tầm ảnh hưởng đang nổi lên
của Liên Xô nếu như chính sách của Mỹ làm Pháp xa lánh hơn với đề tài
tước bỏ thuộc địa của Pháp. "Nếu công chúng ở đây nhận ra rằng các bạn
chống lại chúng tôi tại Đông Dương", ông ta thẳng thừng tuyên bố, "thì sẽ
là nỗi thất vọng khủng khiếp và không ai thực sự biết điều gì sẽ xảy ra".