Khi chính sách này xuất hiện, một số nhân viên biết rõ châu Á cố lái nó
theo một chiều hướng khác. Vào tháng 9 năm 1945, Patrick Hurley, đại sứ
Mỹ tại Trung Quốc, đã cảnh báo rằng "dư luận đang dâng cao một cách
vững chắc tại châu Á là nước Mỹ đang ủng hộ chủ nghĩa đế quốc Anh,
Pháp và Hà Lan và chống lại chế độ dân chủ". Quan điểm nổi bật này xuất
hiện, dĩ nhiên, không có gì ngạc nhiên đối với Hurley, vì rõ ràng ông đã
cảnh báo ngay từ mùa xuân:
Nếu chính sách của Mỹ không phản đối chủ nghĩa đế quốc tại châu Á thì nó
trái ngươc với chính sách Hull(1). Nó trái ngược với các nguyên tắc trong
Tuyên bố Đại Tây Dương. Nó trái ngược với các nguyên tắc của Tuyên
ngôn Độc Lập của Iran. Nó trái ngươc với chính sách mà tất cả các nước,
kể cả các nước đế quốc, đã ủng hộ khi họ đề nghị Mỹ tham gia vào cuộc
chiến vì tự do và dân chủ. Nó trái ngược với chính sách mà Mỹ đã viện dẫn
như lý do chúng ta đánh bài và tiêu diệt đế quốc Nhật .
Không chỉ một mình đại sứ Hurley đau lòng. Các chuyên viên châu Á Bộ
ngoại giao Abbot Low Moffat và Edwin F. Stanton đã nhấn mạnh tầm quan
trọng của Đông Dương như "một nguồn nguyên liệu thô, một thị trường
đầy tiềm năng cho các mặt hàng xuất khẩu, một căn cứ chiến lược tại vùng
Viễn Đông, và cảnh báo rằng sự trở lại của hiện trạng trước chiến tranh sẽ
không phục vụ được lợi ích của Mỹ". Năm 1946, Moffat đến thăm Việt
Nam và hội kiến Hồ Chí Minh. Ông đã lầm tưởng rằng chính sách của Mỹ
là "kiên quyết - không tán thành khôi phục quyền lực thực dân". Moffat bị
ấn tượng bởi cả đất nước lẫn con người và chuyển cho cấp trên của mình
thái độ chần chừ nhưng nói chung là tích cực của Hồ Chí Minh về nước
Mỹ. "Hồ Chí Minh nói về tình bạn và sự ngưỡng mộ của ông đối với nước
Mỹ và những người Mỹ mà ông đã biết và làm việc cùng trong những khu
rừng và vân vân, và họ đã cư xử với người An Nam bình đẳng như thế