cuộc xâm lăng của Nhật vào miền Bắc Trung Quốc. Bất kỳ ai tìm kiếm phát
súng cảnh báo của Chiến tranh thế giới 2 đều không cần để ý xa hơn việc
Nhật Bản chiếm Mãn Châu bằng vũ lực năm 1931. Dù Roosevelt, giống
như hầu hết các chính khách trên thế giới, chỉ trích Nhật Bản xâm lược và
sau đó sát nhập Mãn Châu, được người Nhật đổi tên thành Mãn Châu quốc,
nhưng ông không có ý định can dự vào cuộc tranh chấp xa xôi này. Tuy
nhiên ở đầu nhiệm kỳ thứ hai của ông (1936 - 1940), những hoạt động của
Nhật Bản một lần nữa gây ra lo lắng. Năm 1937, khi chiến tranh Trung -
Nhật nổ ra, Roosevelt một lần nữa lên án những hoạt động quân sự của
Nhật Bản nhưng không cố gắng ngăn chặn sức mạnh quân sự của Thiên
Hoàng lúc này đã sẵn sàng giày xéo hầu hết những khu vực đông dân và
sản xuất của Trung Quốc. Sự bất hành động của Roosevelt có thể thấy phổ
biến trong tính thực dụng chính trị được điều khiển bởi những mối quan
tâm trong nước vì đương nhiên công chúng Mỹ không ủng hộ những hành
động quân sự của Mỹ nhằm bảo vệ Trung Quốc - dẫu rằng hầu hết người
Mỹ thông hiểu tình hình đều muốn Nhật bại trận. Thiện cảm của Roosevelt
rõ ràng còn dành cho người Trung Quốc. Nền tảng giáo dục mà ông sớm có
được, ở nhà và tại trường, (nền tảng ấy nhấn mạnh nhu cầu tôn trọng sự
toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc cũng như lợi ích thương mại của Mỹ
trong khu vực) khát vọng thúc đẩy hoà bình quốc tế, và tất nhiên, mức độ
lo lắng về những gì Nhật Bản có thể làm tiếp theo - tất cả đã thuyết phục
ông giúp Trung Quốc nếu có thể, nhưng bằng những cách không gây đối
kháng với cả Nhật Bản lẫn những người theo chủ nghĩa biệt lập Mỹ.
Số đông các quốc gia khác cũng theo dõi cuộc xung đột Trung - Nhật,
nhưng các nước Tây Âu có những tài sản thuộc địa ở châu Á thì đặc biệt lo
lắng. Cả Anh và Pháp đều có lý do xác đáng để quan ngại. Đến đầu năm
1938, Hồng Kông thuộc Anh và Đông Dương thuộc Pháp là hai trong số
những điểm còn lại mà từ đó các phương tiện chiến tranh có thể được
chuyển vào Trung Quốc. Những nguồn tiếp tế này đặc biệt cần cho sự tồn