cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Giáo sư David
Man giải thích rằng ông Hồ có ý đối chiếu bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ
cũng như Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 với
thực tiễn tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp.(12)
Sau khi đọc vài câu trong bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, ông
Hồ dừng lại và nhìn xuống đám đông ủng hộ rồi hỏi, “Tôi nói đồng bào
nghe rõ không?”. Đám đông hô vang, “Rõ!”. Ông Võ Nguyên Giáp sau này
viết, “Bác cùng với cả biển người đã hòa làm một”(13). Về sau ông Ẩn nói
với tôi rằng “không một lãnh đạo nào ở miền Nam, dù là ông Diệm, ông
Thiệu hay bất cứ ai, lại có mối quan hệ với công chúng tốt như vậy. Chúng
tôi luôn khai thác sự thật cơ bản này”. (14)
Cuối diễn văn, ông Hồ kêu gọi phe Đồng minh ủng hộ nền độc lập của
Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc
lập ấy”. (15)
Khi ông Hồ kết thúc, Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ của chính
phủ mới, đã nói với đám đông rằng “Mỹ… là một quốc gia dân chủ không
có tham vọng xâm chiếm lãnh thổ. Thế mà họ đã gánh trọng trách lớn nhất
trong việc đánh bại kẻ thù phát xít Nhật của chúng ta. Vì thế chúng ta coi
nước Mỹ là bạn tốt”. Một vài người trong đám đông giương cao biểu ngữ,
“Việt Nam hoan nghênh Truman”. (16)
Sau Thế chiến II, Mỹ nổi lên như một cường quốc vượt trội. Việt Nam
nhanh chóng trở thành một con tốt trong cuộc chiến tranh lạnh mới. Giới
hoạch định chính sách đã bỏ qua chi tiết Hồ Chí Minh nhận bản dịch Tuyên
ngôn Độc lập từ Archimedes Patti của Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS);
rằng ông đã giúp cứu các phi công Mỹ và cung cấp tin tức tình báo về các
chiến dịch của Nhật, các hoạt động đã giúp ông có bí số điệp viên 19 trong
OSS, với mật danh là Lucius; và rằng các tay súng Việt Minh cũng đã tham
gia các đợt huấn luyện và tập trận của nhóm OSS Con Nai dọc biên giới
Trung Quốc.