(33) Sách đã dẫn, trang 6-7; trong lúc thảo luận về cuốn The Reporter's
Trade, Ẩn khuyên tôi nên đọc một cuốn sách khác của anh em nhà Alsop,
nhan đề We Accuse! The Story of the Miscarriage of American Justice in
the Case of J. Robert oppenheimer (New York: Nhà xuất bản Simon &
Schuster, 1954). Ông nói rằng cuốn sách này cho thấy anh em nhà Alsop là
những phóng viên giỏi đến nhường nào bởi họ hiểu sự liên quan của
Oppenheimer với Đảng Cộng sản chưa bao giờ có nghĩa ông này đã trở
thành đảng viên, ông nói với tôi rằng Oppenheimer quen biết Lansdale.
(34) Robert Shaplen, “We Have Always Survived”, tạp chí New
Yorker, 15-4-1972.
(35) Vietnam Now, trang 87.
(36) “A Writer Denies CIA Influenced His War Reports”. Báo New
York Times, 1-12-1977, B-15. Xem Hộc 15, Tệp 11, Tài liệu của Shaplen.
(37) Jean-Claude Pomonti, Un Vietnamien bien tranquille. (Paris: Nhà
xuất bản Équateur, 2006).
(38) Thõng điệp ghi âm mà Phạm Xuân Ẩn gửi tới Frank McCulloch,
8-11-2005.
(39) Phỏng vấn Stanley Cloud và Frank McCulloch.
(40) “Un Vìetnamien bien tranquille”, chương 6.
(41) Tên người như cuộc đời, bản dịch của tác giả.
(42) Những huyền thoại để lại.
(43) Phỏng vấn Tư Cang và Ẩn.
(44) Phỏng vấn Rufus Phillips; được Ẩn xác nhận. Khi tôi gặp Ẩn vào
năm 2002, Mark là một trong những người mà ông bảo phải ghi nhớ.
(45) Phỏng vấn Ẩn.
(46) Dangerous Company, trang 118.
(47) Don Oberdorfer, Tet! The Turning Point in the Vietnam War
(Baltimore: Nhà xuất bản The Johns Hopkins University Press, 1971,
2001), trang 140.
(48) Những huyền thoại để lại.
(49) Hai phát súng mở đường thoát hiểm; Quân đội Nhàn dân, 22-10-
2004. Mark Pribbenow dịch. Phỏng vấn Tư Cang.