vừa kéo bạn bè ra khỏi nơi giam cầm, vừa tố cáo chính sách cai trị của
Pháp ở Việt Nam cũng như sự lộng hành của bọn quan lại Nam triều và
chính kiến của mình trước những người Pháp chân chính cũng như góp
phần thức tỉnh những người Việt Nam còn mê muội đắm chìm trong lề thói
cũ.
Tuy viết chưa xong, nhưng Phan Châu Trinh vẫn cứ dịch ra tiếng Việt (bản
thảo viết bằng chữ Hán) rồi mang đến trao đổi với anh em trong hội nhân
quyền. Hầu hết anh em đều thích và nói:
- Ông có máu trạng sư trong người ông Trinh à. Nếu ông học làm trạng sư,
chúng tôi tin chắc ông là một trong những trạng sư giỏi.
Ông Julles Roux, bạn thân của ông tại Pháp, vui vẻ nói:
- Ông cứ viết tiếp như những gì ông đã trao đổi với chúng tôi, và chúng tôi
sẽ tìm cách phổ biến văn bản này. Bản thân tôi sẽ lãnh trách nhiệm dịch ra
Pháp văn để gửi cho Toàn quyền Đông Dương hiện nay là Albert Sarraut và
gửi cho Thượng thư bộ Thuộc địa Pháp, ngài Missiny. Tôi nghĩ, đây là cách
làm thiết thực nhất và có tác dụng nhất của ông đối với xứ Annam.
Phan Châu Trinh phấn khởi, chia tay những người bạn tốt và hứa sẽ hoàn
thành công việc này một cách tốt nhất, sớm nhất.
Trên đường về, Phan Châu Trinh ghé qua thăm con đang học tại trường
Mondparuasse. Phan Châu Dật, con trai ông, được nhận học bổng và nội trú
nên mỗi tuần ông chỉ được đến thăm vài lần. Nhìn thấy con lớn từng ngày,
lòng ông thấy vui, quên cả nhọc nhằn nơi đất khách quê người.
Nghe con trai khoe, tháng này tuy không đứng đầu lớp nhưng vẫn được
nhận bảng danh dự của nhà trường. Phan Châu Trinh mừng ra mặt, động
viên con ráng học để sau này trở thành người hữu dụng cho xã hội.
Khi giã từ con, Phan Châu Trinh nói:
- Người xưa dạy rằng, biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, con hãy
nghiệm lấy.
Đường phố đã lên đèn thì cũng là lúc Phan Châu Trinh về đến nhà.
Ăn uống qua loa, nghỉ một chút, rồi Phan Châu Trinh đến phòng tối rửa
ảnh.
Khi Phan Châu Trinh ngồi vào bàn viết thì đường phố đã lặng im.