bài đánh giá này. Tám mươi ba phần trăm học sinh lớp chín đạt điểm số cao
hơn Billy trong kỳ thi này. Cũng ổn thôi. Chúng ta ở đây không phải để
khiển trách Billy vì sự kém trí ở cháu.”
Mẹ tôi trân mắt nhìn bảng điểm như thể nó được viết bằng thứ chữ nước
ngoài, như thể bà không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tôi luôn ghét cay ghét
đắng những bài đánh giá kiểu này, với những câu hỏi não ngắn cùng với lối
khoanh đáp án vớ vẩn của họ. Sau cả tiếng đồng hồ bôi bút chì lên những ô
tròn nhỏ ấy, tôi cảm thấy sẵn sàng co giò nhảy ra khỏi cửa sổ, bài đánh giá
ấy kéo dài ba ngày trời.
Mẹ đẩy bảng điểm lại: “Vậy giờ sao đây thầy?”
“Điều đó phụ thuộc vào Billy.” Thầy Hibble quay sang phía tôi. “Em sẽ
tốt nghiệp sau ba năm nữa. Em muốn làm gì sau khi học xong?”
Tôi nhún vai và nhìn sang thầy, cầu cho mọi thứ sẽ kết thúc sớm. Tôi
chẳng dám nói về Công ty Phần mềm Planet Will hay kế hoạch trở thành
một lập trình viên thành công như Fletcher Mulligan của Digital Artists.
Tôi biết sẽ bị thầy Hibble cười cho thối mũi.
“Trả lời đi, Billy.”
“Con không biết”, tôi nói.
“Cháu nó mới mười bốn tuổi đầu”, mẹ tôi đỡ lời.
“Cháu nó cần một mục tiêu phấn đấu”, thầy Hibble nói. “Làm việc mà
không có mục tiêu giống như một bánh xe lăn mãi. Chỉ hoài phí sức thôi.”
Tôi cố nghĩ ra một câu trả lời vớ vẩn nào đó làm thỏa mãn thầy Hibble
và nhanh chóng rời khỏi chỗ này.
“Chúng ta sẽ không rời khỏi đây cho đến khi chúng ta tìm được một đích
đến nào đó”, thầy ấy nói. “Em có nghĩ đến chuyện nhập ngũ chưa?”
Tôi lắc đầu. Tôi đã xem nhiều bộ phim đủ để tin rằng môi trường quân
sự đầy rẫy những gã giống thầy Hibble đây, quân đội sẽ là năm tháng đời
người lao vào những cuộc đối đầu căng thẳng hệt như lần này. “Không
quân ngũ đâu ạ.”