vọng niệm do nơi đó mà sinh. Do đó giáo môn này mới lập vô niệm làm
tông.
Này các thế nhân, hãy xa lìa các kiến chấp và đừng sinh khởi vọng
niệm. Nếu như không có niệm, vô niệm cũng chẳng thể thành lập được.
“Vô” là “vô” cái gì? “Niệm” là “niệm” vật gì? “Vô” là lìa xa nhị tướng khởi
trần lao. “Niệm” là niệm chơn như bổn tánh. Chơn như là thể của niệm,
niệm là dụng của chơn như. Nếu khởi niệm từ tự tánh, thì tuy có kiến, văn,
giác, tri, cũng vẫn chẳng hề bị vạn cảnh nhiễm mà vẫn luôn luôn tự tại.
Kinh Duy Ma Cật nói: “Bên ngoài tuy khéo phân biệt các pháp tướng, bên
trong vẫn bất động nơi Đệ nhất nghĩa đế”.
18. Này các thiện tri thức, trong pháp môn này, tọa thiền vốn không
chấp trước tâm, không chấp trước tịnh, mà cũng chẳng nói đến bất động.
Nếu có người bảo là quán tâm, thì tâm vốn là vọng, và bởi vì vọng cũng
giống như huyễn, đâu có đối tượng để mà quán. Nếu nói là quán tịnh, thì
bổn tánh con người vốn tịnh, chỉ bởi vì vọng niệm che phủ chơn như. Chỉ
cần lìa vọng niệm, bổn tánh tự nhiên thanh tịnh. Không thấy được rằng tự
tánh vốn thanh tịnh, tâm khởi ý niệm quán tịnh, là đâm ra khiến vọng niệm
về tịnh sanh. Vọng vốn không nơi chốn, cho nên phải biết rằng những gì
mình quán thấy chỉ là hư vọng mà thôi. Tịnh vốn vô hình tướng, song có
người lại vẫn giả lập tịnh tướng, rồi gọi đó là công phu “tu tập Thiền”.
Những người mang kiến chấp này tự che mờ bổn tánh mình, rồi rốt cuộc lại
bị trói buộc bởi cái vọng niệm về tịnh. Người tu pháp bất động, không thấy
lỗi lầm của người khác, đó là cái bất động của tự tánh. Kẻ mê tuy tự thân
hắn bất động, song thoắt mở miệng là chỉ nói đến thị phi của người khác, do