PHẬT GIÁO NAM TÔNG TẠI VÙNG NAM BỘ
346
11 giáo huấn ca: Chơ-bắp pờ-roos: luật dạy con trai; Chơ-bắp sơ-rây:
luật dạy con gái; Chơ-bắp Hê-ma-ha chan: luật dạy dân chúng; Chơ-
bắp Bon-Đam bế-đa: luật dạy cuat bậc làm cha; Chơ-bắpKôn chau lo-
bơt: luật dạy con cháu; Chơ-bắp Tôul – miên khơ-luông: luật tu thân;
Chơ-bắp vi-thua bành-đit: luật dạy người trí thức; Chơ-bắp piek chas:
luật dạy của người xưa; Chơ-bắp rích-nê-tiếc hay còn gọi là Chơ-bắp
Pờ-rặc Rích Sầm-phia: luật nhà vua dạy dân chúng; Chơ-bắp Kê kal:
luật di huấn; còn gọi là Chơ-bắp sê thây: luật phú hộ dạy con; Chơ-
bắp Pơ Kôn chau: luật dạy con cháu.
iv. Satra-Tes (Satra kinh, kệ)
Satra-Tes là loại Satra ghi chép những Phật thoại và kinh Phật.
theo ngôn ngữ Khmer hiện đại, toàn bộ Satra-Tes có thể gọi là mảng
văn học Phật giáo. Ở loại Satra này ta thấy có các tập sau đây: Tập
Chiếc đok gồm có nhiều quyển ghi chép các chuyện kể về kiếp trước
của Phật thích ca như truyện Mô-ha sát kể về kiếp Phật còn là một
thầy thuốc; Kơ-rông sốp-bì-sách kể về kiếp đức Phật còn là một cặp
chim đa đa; Tô chiếc là tập truyện kể những Phật thoại nói về 10
hạnh của đức Phật như hạnh bố thí, hạnh trì giới, hạnh tinh tấn;
Mô-ha chiếc hay còn gọi là Đô-ha-chiếc đok là truyện nói về (tiền
kiếp) của Phật, lúc Phật còn là hoàng tử Vê sân-đo, người thực hành
triệt để hạnh bố thí. Bộ sách này, được coi là bộ sách đồ sộ nhất,
gồm 14 quyển. Ngoài ra, trong Satra-Tes, còn có các bộ kinh Phật
khác như bộ Trai- bây- đók (Tam tạng kinh điển), Dhammapada
(Pháp cú kinh) được phiên dịch từ kinh tang Pali ra tiếng Khmer.
Với sự kỳ công để hoàn thành một bộ Kinh lá, ngày 23-1-2017,
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có quyết định công bố Danh
mục 11 Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó có “Tri
thức và kỹ thuật viết chữ trên lá buông của người Khmer” thuộc
loại hình “Tri thức dân gian” tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên
(tỉnh An Giang).
6
6. Phan Trong Ân (2013), Độc Đáo Kinh Lá buông Vùng Bảy Núi,http://thegioidisan.vn/vi/doc-
dao-kinh-la-buong-vung-bay-nui.html, truy cập ngày: 22/05/2020.